Giới thiệu sách

Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam: Nghiên cứu khai thác, sử dụng những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam (Phần cuối)

Nguồn tin:  Sách Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam
Cập nhật: 15/12/2024 01:22 SA

IMG

   III. Vấn đề trồng cây thuốc và nuôi động vật làm thuốc

   Chính qua việc nghiên cứu để đặt vấn đề khai thác nguồn dược liệu của nước ta, đối chiếu so sánh với những bước đi của những nước tiên tiến, chúng tôi thấy rằng dù nguồn dự trữ những cây thuốc hay động vật hoang dại dùng làm thuốc có to lớn đến mức độ nào đi nữa, nuốn chủ động và bảo đảm nguồn nguyên liệu lâu dài, có chất lượng đồng đều cho nền công nghiệp dược phẩm dựa trên nguồn dược liệu là chính, thì đi đôi với việc tổ chức và hoàn chỉnh mạng lưới thu mua, chế biến đối với những cây thuốc, động vật hoang dại dùng làm thuốc, nhất thiết phải đặt vấn đề trồng cây thuốc và nuôi động vậtlàm thuốc trên qui mô lớn.

   Nhưng ai làm và chọn cây gì, con gì thì còn rất nhiều ý kiến. Qua kinh nghiệm bản thân, chúng tôi nghĩ rằng, người nghiên cứu và đề xuất vấn đề phải có trách nhiệm theo dõi từ khi vấn đề được đưa ra cho đến khi có người tiếp nhận, để có thuốc cho nhân dân dùng. Vì không phải chức năng chính, cho nên khi lựa chọn cây gì, con gì để nghiên cứu đặt vấn đề nuôi hay trồng, chúng tôi thường bắt đầu tiến hànhbằng những cây và những động vật làm thuốc có nhu cầu lớn, có thể đảm bảo thành công với điều kiện khí hậu, đất đai nước ta. Trên phương hướng đó, trong hoàn cảnh công tác của chúng tôi, chúng tôi chỉ đóng khung vào một số cây như cây ba gạc ấn Độ, nhưng sau khi phát hiện được cây ba gạc Việt Nam thì chúng tôi chuyển sang cây sẵn có ở trong nước. Đối với cây bạc hà cũng vậy, khi mới nghiên cứu chúng tôi đặt vấn đề di thực những cây bạc hà từ Pháp, Liên Xô, Đức, Trung Quốc, nhưng sau đó chúng tôi trở lại vấn đề tìm phát triển những loại bạc hà mọc hoang có năng suất và chất lượng thích hợp với đò hỏi của nước ta.

   Đối với một số cây vốn không có sẵn ở nước ta, chúng tôi chọn những cây ta cần mà trước đây đã có người tiến hành nghiên cứu rồi, để rút ngắn thời gian mò mẫm, chúng tôi đã chọn để di thựclại cây actisô, một vị thuốc chữa bệnh gan; cây actisô trước đây Pháp cũng đã di thực thành công nhưng qua thời gian kháng chiến đã mất giống. Bây giờ chỉ cần có giống là lại phát triển được và có nguyên liệu chế thuốc ngay. Đối với một cây hoàn toàn mới, chúng tôi chọn cây cam thảo bắc vì có nhu cầu lớn không những trong y dược mà cả trong nhiều ngành công nghiệp khác nữa.

   Về động vật, chúng tôi chọn con tắc kè vì đây là một đặc sản của nước ta, nó có giá trị cao về thuốc và kinh tế, nhất là đối với nước ngoài. Chúng ta có thể dùng tắc kè để đổi lấy những thuốc khác mà chúng ta đang cần.

   Năm 1973, theo yêu cầu của Ty y tế Hà Sơn Bình cũ chúng tôi đã cùng phó tiến sĩ sinh học Trần Kiên nghiên cứu thành công vấn đề nuôi rắn độc lấy nọc và thịt chế thuốc chữa đau nhức thấp khớp. Trại nuôi rắn Hà Sơn Bình cũ có thể coi như trại nuôi rắn theo khoa học đầu tiên ở nước ta.
Tuy nhiên, trong vấn đề trồng cây thuốc và nuôi động vật làm thuốc, chúng tôi nghĩ rằng ngoài vấn đề kĩ thuật ra, chúng ta phải xây dựng cho mình, cho thế hệ tương lai một quan điểm mới, một truyền thống đi từ nhỏ đến lớn như thế nào.

   Để thay cho phần kết luận, chúng tôi muốn nêu lên ở đây một số suy nghĩ và phương pháp đã dùng trong cả quá trình đi vào nghiên cứu, khai thác nguồn dược liệu phong phú của nước nhà. Đã có người nêu vấn đề với chúng tôi: "Tại sao trong thời đại nguyên tử, trong thời đại mà ngành phẫu thuật đã có những tiến bộ vượt bậc: thay tim, thay một số cơ quan của người, trong thời đại thuốc kháng sinh và thuốc tổng hợp hóa học rất hấp dẫn, mà chúng tôi lại tha thiết quay trở lại với những vị thuốc của nền y học cổ truyền (YHCTDT)? Nếu có gì hay, thuốc nào tốt thì thế giới đã nghiên cứu , khai thác rồi, đâu còn đến lượt chúng ta!".

   Từ khi còn nhỏ, không ít trường hợp bản thân chúng tôi đã được cứu chữa bằng thuốc YHCTDT, và chúng tôi đã được chứng kiến không ít trường hợp người bệnh được chữa khỏi bằng thuốc đông y, hay chỉ bằng một cây thuốc, một bài thuốc đơn giản, gần như không tốn kém. Nhưng đến khi bước vào ngưỡng cửa Trường đại học y dược năm 1939, chúng tôi ngạc nhiên: hầu như không thấy ai nói đến những vị thuốc của nền YHCTDT. Hoặc có nói nhưng bao hàm một tinh thần coi thường, khinh miệt.

   Cao trào Cách mạng giải phóng dân tộc (1939-1945) và nhất là Cách mạng Tháng Tám thành công lại càng củng cố lòng tin của chúng tôi đối với truyền thống của cha ông nói chung, truyền thống về kinh nghiệm chữa bệnh nói riêng.

   Không được học ở nhà trường, thì cùng với việc đi theo những buổi giảng trên ghế nhà trường đại học, chúng tôi tìm đến nhân dân, đến những người thầy thuốc dân tộc danh tiếng, đến những người bệnh đã được cứu khỏi bằng thuốc đông y sau khi đã chạy chữa ở nhiều nơi; và xin làm học trò của một ông lang quê nhà, người đã có dịp cứu chữa bệnh cho tôi mà rất nhiều người ở Hà Nội đã tìm đến. Chúng tôi tìm đọc các sách báo nói đến nền YHCTDT này, và tò mò theo dõi một số ít những công trình của một số ít nhà nghiên cứu Pháp tiến hành để lợi dụng nguồn tài nguyên phong phú của đất nước ta.

   Lẽ dĩ nhiên, với những kiến thức của khoa học hiện đại được hấp thụ trên ghế nhà trường đại học thời thuộc Pháp, chúng tôi không hiểu hay hiểu rất ít và không hài lòng với những cách giải thích của những thầy thuốc đông y hoặc được nêu trên các sách báo đông y. Nhưng chúng tôi cũng không có lập luận nào vững để bác được những kết quả chữa khỏi bệnh đã chứng kiến. Tìm những cách giải thích của những công trình nghiên cứu theo khoa học hiện đại cũng không được và không có. Chúng tôi cũng không thấy có thầy để xin học, xin làm. Chúng tôi cũng chưa có dịp ra nước ngoài để xem ở những nước tiên tiến người ta tiếp thu những kinh nghiệm cổ truyền như thế nào. Đến 1956, chúng tôi mới có dịp tiếp xúc làm việc và học cách làm của một số chuyên gia Liên Xô (1956), Rumani và Đức công tác ngay nơi chúng tôi làm việc hay ở cơ quan bạn. Năm 1958, chúng tôi mới có dịp tham quan Liên Xô trong hai tháng và cuối 1966 tham quan một số cơ sở y dược ở tỉnh Vân Nam (Trung Quốc) trong 4 tuần. Cho nên không còn con đường nào khác ngoài con đường vừa làm vừa học, vừa rút kinh nghiệm. Làm rồi lại đọc tài liệu, đọc rồi lại làm. Có những tài liệu, kể cả những tài liệu đông y rất khó hiểu, chúng tôi đã đọc đi đọc lại nhiều lần mà vẫn thấy nhiều điều mới mẻ. Chúng tôi bắt đầu bằng một số việc mà chúng tôi cho là dễ vì phương pháp đã có, nguyên liệu có, nhu cầu có, có người đã làm rồi nhưng ở nước ta chưa thấy làm. Dần dần chúng tôi mới tiến hành đến những đề tài mà phương pháp có, nhưng nguyên liệu, mục đích mới, cuối cùng mới đến những đề tài mà phương pháp đến với đối tượng nghiên cứu đều mới. Vì đã biết cáo khổ của những người thiếu tài liệu tham khảo cho nên sưu tầm được điều gì hay, đọc được tài liệu nào mới (cổ cũng như hiện đại), tiến hành được những thí nghiệm nào do bản thân làm hay do hướng dẫn người khác cùng làm, chúng tôi đều sắp xếp lại cho có hệ thống, viết thành tài liệu. Dần dần tập hợp và đúc kết lại thành hai bộ sách: "Dược liệu học và các vị thuốc Việt Nam", "Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam" và những công trình đã công bố.


   Trong việc lựa chọn những vấn đề để nghiên cứu, bao giờ chúng tôi cũng xuất phát trước tiên từ nhu cầu thuốc chữa bệnh trong nước, khả năng thiết bị ,nguyên liệu ta đều có.Nếu đã có người ở nước khác đã làm rồi nhưng chưa được áp dụng ở nước ta càng tốt. Ta phải thừa kế kinh nghiệm các cha ông ta, mà phải thừa kế cả những kinh nghiệm các nhà khoa học của thế giới.

   Nhưng dù sao những việc chúng tôi đã làm trong thời gian vừa qua cũng chỉ là những luống đất mới cầy vỡ trên một mảnh đất còn hoàn toàn man dại.Công việc đòi hỏi tài sức của nhiều người, nhiều tổ chức cùng chung lưng vào làm thì mới mong xây dựng cho đất nước ta một truyền thống mới: truyền thống xây dựng trên quy mô lớn trên cơ sở của khoa học hiện đại,nguồn dược liệu phong phú của nước ta, góp phần thực hiện phương châm "tự lực cánh sinh" và phương châm "kết hợp YHCTDT với y học khoa học hiện đại" để xây dựng cho được một nền y học Việt Nam đánh dấu một thời đại vĩ đại của dân tộc ta.


Sách "Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam"

Tác giả: Giáo sư Tiến sĩ khoa học ĐỖ TẤT LỢI


Xin vui lòng ghi rõ nguồn www.dotatloi.com" khi phát hành lại thông tin.


Tuyên bố miễn trừ trách nhiệm:
Thông tin trên www.dotatloi.com chỉ phục vụ nghiên cứu học tập và mở rộng kiến thức. Không sử dụng làm căn cứ để tiến hành chẩn trị trên lâm sàng. Thông tin trên www.dotatloi.com có thể được trích dẫn, thu thập từ các ấn phẩm, các trang tin điện tử liên quan trong nước và ngoài nước. Nếu phát sinh vấn đề bản quyền, kính đề nghị phản hồi cho chúng tôi.

Viết bình luận

Để thuận tiện cho việc đăng tải, xin vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.
Chúng tôi mong muốn nhận được những bình luận theo hướng mở rộng hoặc bổ sung thông tin liên quan đến bài viết.
Chúng tôi sẽ khóa những bình luận có ngôn từ mang tính kích động hoặc bất nhã.

focus Cây thuốc phiện
01/04/2025 09:00 CH

- 罂粟. Còn có tên là a phù dung, anh tử túc, a phiến, túc xác, anh túc xác. Tên khoa học Papaver somniferum L. Thuộc họ Thuốc phiện (Papaveraceae). Thuốc độc loại gây nghiện. Dùng cho trẻ con phải cẩn thận theo chỉ dẫn của thầy thuốc. Anh túc xác (Fructus Pa...

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu
Tên vị thuốc Mô tả
Ba chạc - 三桠苦. Còn gọi là dầu dấu, bí bái, mạt, kom la van tio tăng (Viêm tian), swai anor (Cămpuchia). Tên khoa học Evodia lepta (Spreng) Merr. (Evodia triphylla Guill, non DC.). Thuộc họ Cam quít (Rutaceae).
Ba chẽ - 假木豆. Còn gọi là ba chẽ, niễng đực. Tên khoa học Desmodium cephalotes Wall. Thuộc họ Cánh bướm Fabaceae (Papilionaceae).
Ba đậu - 巴豆. Còn gọi là mắc vát, cóng khói, bã đậu, giang tử, mãnh tử nhân, lão dương tử, ba nhân, mần để, cây để, cây đết, phổn (Hòa Bình). Tên khoa học Croton tiglium L. Thuộc học Thầu dầu (Euphorbiaceae). Cây ba đậu cho ta các vị thuốc sau đây: (1) Hạt ba đậu (Semen Tiglii) là hạt ba đậu phơi khô; (2) Dầu ba đậu (Oleum Tiglii) là dầu ép từ hạt ba đậu; (3) Ba đậu sương là hạt ba đậu sau khi đã ép hết dầu đi rồi. Vì vị thuốc giống hạt đậu, lại sản xuất ở Ba Thục (vùng Tứ Xuyên, Trung Quốc hiện nay) do đó có tên này.
Ba đậu tây - 響盒子 (响盒子). Còn gọi là điệp tây, cây vông đồng, sablier. Tên khoa học Hura crepitans L. Thuộc họ Thầu dầu (Euphorbiaceae).
Bấc đèn - 燈心草 (灯心草). Còn có tên là đăng tâm thảo. Tên khoa học Juncus effusus L. var. decipiens Buch. Thuộc họ Bấc (Juncaceae). Đăng tâm thảo (Medulla Junci caulis) là ruột phơi khô của thân cây bấc đèn.
Bạc hà - 薄荷. Tên khoa học Mentha arvensis L. Thuộc họ Hoa môi (Labiatae). Bạc hà là một vị thuốc rất phổ thông ở nước ta. Nó được dùng trong cả đông y và tây y. Cây bạc hà cho những vị thuốc chủ yếu sau đây: (1) Bạc hà (Mentha hay Herba Menthae) là toàn bộ phận trên mặt đất, tươi hay phơi hoặc sấy khô của cây bạc hà; (2) Bạc hà diệp (Folium Menthae) là lá bạc hà tươi hay phơi hoặc sấy khô; (3) Tinh dầu bạc hà (Oleum Menthae) là dầu cất từ cây bạc hà; (4) Mentol hay bạc hà não (Mentol-Mentol) là chất đặc, trắng chiết từ tinh dầu bạc hà ra. Về mặt thực vật cần phân biệt nhiều loài bạc hà hiện có ở nước ta. Loài chủ yếu thường gặp là loài Mentha arvensis L. mọc hoang rất nhiều ở nước ta, nhưng qua mấy năm điều tra, chúng tôi chưa thấy lại. Tuy nhiên trong thời gian từ năm 1955 đến nay, chúng tôi đã di thực được loài Mentha piperita L. này bằng hạt nhận được ở Pháp (1956) và dây giống bạc hà của Liên Xô (1958) hiện nay đã phổ biến đi nhiều nơi và của Đức (1962) ở nước ta.
ĐỐI TÁC - LIÊN KẾT
[ Lên đầu trang ]