Giới thiệu sách

Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam: Cuộc đời và sự hoạt động của nhà dược liệu học lớn nhất của Việt Nam - Giáo sư Đỗ Tất Lợi

Nguồn tin:  Sách Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam
Cập nhật: 14/12/2024 08:17 SA

IMG


Ông Đỗ Tất Lợi (1) là một trong những nhà hoạt động xuất sắc của y học khoa học hiện đại, người có khả năng bắc cầu giữa y học khoa học vĩ đại của châu á, nền y học Việt Nam.

Chú thích (1): Bản thân các tác giả đã có dịp gần gũi với ông Đỗ Tất Lợi khi ông sang thăm Leningrad và sau này trong dịp các tác giả công tác ở nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.

Đồng thời với việc tiếp thu một nền giáo dục về dược học hoàn hảo, hiện đại, sau đó lại được hấp thụ những thành tựu của khoa dược học thế giới, ngay từ thuở nhỏ, Đỗ Tất Lợi đã rất kính trọng các thành quả văn hóa của nước mình, trong đó có nền y học cổ truyền là một bộ phận gắn liền khăng khít. Hiểu rất rõ thực tế đông y, được biết rằng qua hàng bao thế kỷ, đông y đã chữa bệnh cho nhân dân nước mình, với trình độ khá cao cho nên đối với đông y, ông có tấm lòng nhiệt tình của người dân yêu nước và tính công bằng không thiên vị của một nhà bác học chân chính.

Thu thập các tài liệu về cây thuốc của nền y học cổ truyền, ông đã làm công việc không phải của một nhà dân tộc học hoặc một nhà thực vật học mà đã tạo ra được một cơ sở khoa học chân chính.

Là một công dân của nước Việt Nam, ông Đỗ Tất Lợi đã không có thành kiến dân tộc, cái đó có thể làm tổn hại đến những gì thực sự có giá trị của bất kỳ nền y học cổ truyền nào khác, đồng thời ông cũng không có tư tưởng "sùng bái Âu tây" tư tưởng này cho đến nay đã ngăn cản một số người hoạt động y học khoa học trong việc sử dụng kho tàng phong phú của nền y học cổ truyền đã tích lũy được.

Đường đời của ông Đỗ Tất Lợi rất điển hình cho cuộc đời của một người con của một dân tộc đã nhiều năm đấu tranh vì tự do độc lập của mình. Ông sinh trong một gia đình làm nghề nông nghiệp tại làng Phù Xá tỉnh Vĩnh Phú vào ngày 1 tháng 2 năm 1919. Có thể nói rằng tính yêu thiên nhiên đất nước đã thể hiện ở ông Đỗ Tất Lợi ngay từ thời thơ ấu do ảnh hưởng của cha ông là ông Đỗ Văn Kiêm, một người rất say mê trồng trọt và đã đạt được những kết quả không nhỏ trong việc trồng các cây ăn quả, nhất là cây na - Anono squamosa L.

Chàng thanh niên 20 tuổi Đỗ Tất Lợi vào Trường đại học y dược Hà Nội. Vào thời đó, trước khi vào đại học phải qua học bậc tiểu học, sau đó là bậc trung học trong vòng 13 năm (trong các trường trung học và đại học, tất cả các môn đều dạy bằng tiếng Pháp), ông Lợi đầu tiên học ở Thái Bình, sau đó ở Phúc Yên, Hải Phòng và cuối cùng là ở Hà Nội.

Đồng thời với việc vào trường đại học năm 1939, ông Đỗ Tất Lợi bắt đầu làm học trò của cụ lang Lê Văn Sáp là người chữa gãy xương nổi tiếng. Ngay cả ở Hà Nội cũng phải mời cụ đi chữa những trường hợp khó khăn.

Theo thầy dạy, ông Đỗ Tất Lợi đi thu thập các cây thuốc và đi thăm các bệnh nhân.

Thời kỳ năm 1939 tới năm 1944, khi ông Đỗ Tất Lợi học tập tại Trường đại học y dược ở Hà nội, đó là thời kỳ không những học tập cần mẫn mà còn là thời kỳ nghiên cứu có mục đích rõ ràng. Nhà bác học trẻ tuổi kiên quyết đi theo con đường thâm nhập vào bí mật của đông y. Mọi thời gian rỗi ông đều để dành để đọc sách, nói chuyện với các thầy lang đông y.

Năm 1944, trước Cách mạng tháng Tám và tuyên ngôn thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, ông Đỗ Tất Lợi tốt nghiệp đại học và bắt đầu dốc những năng lực sẵn có cho công tác khoa học. Năm 1945, một tờ báo ở Hà Nội đã đăng bài báo đầu tiên của nhà bác học trẻ tuổi. Sau này, trong kháng chiến, bài báo đó được đăng lại trong tờ báo quân y. Trong bài báo, sau khi đã so sánh các thuốc của tây y và đông y, tác giả đã đi tới kết luận thuốc đông y rất quý giá và đặt vấn đề cần phải tổ chức lại công việc sản xuất thuốc men cho đất nước. Vào tháng 12 năm 1946, khi bắt đầu cuộc kháng chiến, ông Đỗ Tất Lợi đã ở trong hàng ngũ quân đội nhân dân Việt Nam. Đề nghị của ông xây dựng các phòng thí nghiệm nhằm nghiên cứu và sản xuất thuốc bằng nguyên liệu địa phương (nhất là bằng các cây thuốc địa phương) trong hệ thống quân y đã được chấp nhận. Ông được giao nhiệm vụ tổ chức và đứng đầu những phòng thí nghiệm đó - sau này là phòng dược chính. Suốt trong thời kỳ kháng chiến, khi mà những người yêu nước Việt Nam phải sống trong rừng sâu và trên núi cao, ông Đỗ Tất Lợi một dược sĩ chính của quân đội đã thu thập không biết mệt mỏi những kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của các thầy lang và đã chế nhiều thuốc cung cấp cho quân đội.

Trong giai đoạn này, một mặt ông đã nghiên cứu điều chế cao từ búp ổi Psidium guyava Lin. thay thế cho các dạng thuốc có tanin, chế tạo từ cây cà độc dược Datura metel L. thay thế cho thuốc belladona (Atropa belladona L.) mà Việt Nam không có, chế từ lá cây thường sơn Dichroa febrifuga Lam. là một loại thuốc chữa sốt rét.

Mặt khác, trong điều kiện khí hậu nhiệt đới ẩm thấp, việc bảo quản thuốc men gặp rất nhiều khó khăn, ông Đỗ Tất Lợi đề ra phương pháp bảo quản các thuốc viên, giảm tỷ lệ hư hỏng (bị mốc) từ 50-60% xuống 3-5%. Lần đầu tiên ở miền Bắc Việt Nam đã tìm thấy Mã tiền Strychnos sp. là nguyên liệu cơ bản để đều chế Strychnin của Việt Nam, tìm thấy ba gạc Rauwolfia verticillata (Lour.) Baill. để chế rauticil là một thứ thuốc phổ biến chữa cao huyết áp.

Hòa bình lập lại, ông Đỗ Tất Lợi giữ nhiệm vị tổ chức và đứng đầu Bộ môn dược liệu và thực vật của Trường đại học y dược Hà Nội (từ năm 1963 đã tách thành 2 trường riêng biệt), đồng thời làm cố vấn chuyên môn cho Công ty thuốc nam thuốc bắc và giảng dạy tại các Trường đại học tổng hợp Hà Nội và Trường đại học nông nghiệp v. v...

Trong ủy ban khoa học nhà nước của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, ông Đỗ Tất Lợi đứng đầu tiểu ban hóa thực vật và là phó tiểu ban thực vật đồng thời ông là trưởng ban dược liệu của Hội đồng dược điển Việt Nam dân chủ cộng hòa. Ông là một trong những người tổ chức và là người hoạt động tích cực của Hội Đông y, Hội dược học, là ủy viên ban chấp hành trung ương Hội phổ biến khoa học và kỹ thuật. Đồng thời với những hoạt động sư phạm và phổ biến khoa học rộng rãi, nhiều mặt và sôi nổi, ông đã tổng kết 26 năm nghiên cứu cây thuốc đông y và đã hoàn thành một bộ sách dược liệu gồm 6 tập.


I. I. Brekman, A. F. Hammerman, I. V. Gruxvitxki và A. A. Iaxenkô-Khmêlepxki


Sách "Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam"

Tác giả: Giáo sư Tiến sĩ khoa học ĐỖ TẤT LỢI



Xin vui lòng ghi rõ nguồn www.dotatloi.com" khi phát hành lại thông tin.


Tuyên bố miễn trừ trách nhiệm:
Thông tin trên www.dotatloi.com chỉ phục vụ nghiên cứu học tập và mở rộng kiến thức. Không sử dụng làm căn cứ để tiến hành chẩn trị trên lâm sàng. Thông tin trên www.dotatloi.com có thể được trích dẫn, thu thập từ các ấn phẩm, các trang tin điện tử liên quan trong nước và ngoài nước. Nếu phát sinh vấn đề bản quyền, kính đề nghị phản hồi cho chúng tôi.

Viết bình luận

Để thuận tiện cho việc đăng tải, xin vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.
Chúng tôi mong muốn nhận được những bình luận theo hướng mở rộng hoặc bổ sung thông tin liên quan đến bài viết.
Chúng tôi sẽ khóa những bình luận có ngôn từ mang tính kích động hoặc bất nhã.

focus Núc nác
13/04/2025 08:46 CH

- 千張紙 (千张纸). Còn gọi là so đo thuyền, lin may, mộc hồ điệp, ung ca (Lào-Viêntian), k'nốc (Buônmêthuột), nam hoàng bá, hoàng bá nam, thiêu tầng chỉ, bạch ngọc nhi, thiên trương chỉ (Vân Nam) triểu giản (Quảng Tây). Tên khoa học Oroxylum indicum (L.), Vent (B...

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu
Tên vị thuốc Mô tả
Châu thụ - 芳香白珠. Còn gọi là lão quan thảo (Sìn hồ, Lai Châu). Tên khoa học Gaultheria fragrantissima Wall. (Gaultheria fragrans Don). Thuộc họ Đỗ quyên (Ericaceae).
Chay - 胭脂樹 (胭脂树). Còn gọi là Cây chay. Tên khoa học Artocarpus tonkinensis A. Chev. Thuộc họ Dâu tằm (Moraceae).
Chè vằng - 茉莉. Còn gọi là chè cước man, dây cẩm văn, cây dâm trắng, cây lá ngón, dây vắng, mổ sẻ. Tên khoa học Jasminum subtriplinerve Blume. Thuộc họ Nhài (Oleaceae). Nhiều người gọi nhầm cây chè vằng là cây lá ngón, nhưng một cây có hoa vàng (lá ngón thật), một cây kia hoa trắng, ngoài ra còn một số điểm khác cần chú ý để tránh nhầm lẫn.
Chỉ thiên - 地膽草 (地胆草). Còn gọi là cỏ lưỡi mèo, địa đảm đầu, địa đảm thảo, bồ công anh, khổ địa đảm. Tên khoa học Elephantopus scaber L. (Scabiosa cochinchinensis Lour., Astercocephalus cochinchinensis Spreng.). Thuộc họ Cúc Asteraceae (Compositae). Tên thông thường của cây này là chỉ thiên, tuy nhiên, tại một số vùng Nam Bộ, và Trung Bộ người ta gọi là cây lưỡi mèo. Một số người ở miền Nam dùng với tên bồ công anh. Tại một số tỉnh miền Nam Trung Quốc (Quảng Tây), người ta cũng dùng cây này với tên bồ công anh (xem vị này), cần chú ý tránh nhầm lẫn.
Chỉ thực - 枳實 (枳实). Còn gọi là chỉ xác, xuyên chỉ thực, xuyên chỉ xác. Tên khoa học Citrus sp. Thuộc họ Cam quít (Rutaceae). Chỉ thực (Fructus Aurantii immaturii) và Chỉ xác (Fructus Citri aurantii) đều là quả phơi khô của chừng hơn 10 cây chi Citrus và Poncirus thuộc họ Cam quít (Rutaceae) nhưng thu hái ở thời kỳ khác nhau. Chỉ thực là quả hái vào lúc còn non nhỏ, có khi do bị gió mạnh tự rụng dưới gốc cây (theo chữ Trung Quốc chỉ là tên cây, thực là quả). Chỉ xác là quả hái vào lúc gần chín. Thường bổ đôi để phơi cho chóng khô. Chỉ xác thường to hơn chỉ thực và thường bổ đôi. Chỉ vẫn là tên cây, xác là còn vỏ và xơ vì quả bổ đôi phơi khô ruột quả bị quắt lại.
Chìa vôi - 白粉藤. Còn gọi là bạch liễm, đau xương, bạch phấn đằng. Tên khoa học Cissus modeccoides Planch. [Cissus vitiginea Lour. (non L.) C. triloba merr., Callicarpa triloba Lour.]. Thuộc họ Nho (Ampelidaceae).
ĐỐI TÁC - LIÊN KẾT
[ Lên đầu trang ]