Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu

SINH ĐỊA - 地黄

Còn gọi là địa hoàng, thục địa.

Tên khoa học Rehmannia glutinosa (Gaertn.) Libosch (Digitalis glutinosa Gaertn).

Thuộc họ Hoa mõm chó (Scrophulariaceae).

SINH ĐỊA, 地黄, địa hoàng, thục địa, Rehmannia glutinosa (Gaertn.) Libosch, Digitalis glutinosa Gaertn, họ Hoa mõm chó, Scrophulariaceae

Sinh địa - Rehmannia glutinosa

Sinh địa (Rhizoma Rehmanniae) là thân rễ phơi hay sấy khô của cây địa hoàng hay cây sinh địa.

Thục địa là sinh địa đem chế biến theo một phương pháp riêng (thục là nấu, chín).

A. MÔ TẢ CÂY

Sinh địa là một cây thuộc thảo, cao độ 10-30cm. Toàn cây có lông mềm và lông bài tiết màu tro trắng. Thân rễ mẫm thành củ, lúc đầu mọc thẳng, sau mọc ngang, đường kính từ 0,4 đến 2-3cm.

Lá mọc vòng ở gốc, ít khi thấy ở thân, phiến lá hình trứng ngược, dài 3-15cm, rộng 1,5-6cm, đầu lá hơi tròn, phía cuống hẹp lại, mép lá có răng cưa mấp mô không đều, phiến lá có nhiều gân nổi ở mặt dưới chia lá thành những múi nhỏ.

Mùa hạ nở hoa màu tím đỏ mọc thành chùm ở đầu cành. Đài và tràng đều hình chuông, tràng hơi cong, dài 3-4cm, mặt ngoài tím sẫm, mặt trong hơi vàng với những đốm tím, 4 nhị với 2 nhị lớn.

Ở Việt Nam ta chưa thấy có quả. Tại Trung Quốc mùa hoa là tháng 4-5, mùa quả tháng 5-6.

Ngoài cây sinh địa kể trên, thị trường Trung Quốc còn dùng một loại sinh địa nữa: Rehmannia lutea Maxim. var. purpurea Makino.

Sinh địa trước đây hoàn toàn phải nhập từ Trung Quốc và Triều Tiên.

Từ năm 1958, chúng ta đã di thực thành công cây sinh địa. Hiện nay đang phát triển ở khắp các địa phương.

Qua kinh nghiệm trồng mấy năm gần đây, tỉnh nào cũng có thể trồng sinh địa, miễn là nhiệt độ không dưới +3o trong nhiều ngày.

Đối với các tỉnh miền núi cao hay nơi lạnh nhiều, mỗi năm chỉ có thể trồng được một vụ (giống như nhiều tỉnh Trung Quốc): Vào cuối xuân (tháng 3, tháng 4 dương lịch) thì trồng và thu hoạch vào tháng 8-9. Nếu trồng vào mùa thu, cây không phát triển được vào mùa lạnh.

Đối với các tỉnh miền trung du và đồng bằng mỗi năm có thể trồng hai vụ: Một vụ trồng vào tháng 1-2, thu hoạch vào tháng 7-8, một vụ trồng vào tháng 7-8 và thu hoạch vào tháng 2-3.

Thực tế còn có thể trồng vào những tháng khác nữa, nhưng 2 vụ trên đem lại năng suất cao nhất.

Trồng bằng thân rễ, mỗi mẩu dài 1-2cm. Cắt xong đem trồng ngay hoặc ủ ở vườn ươm đến khi nảy mầm mới đem trồng, mỗi hố cách nhau 10-15cm.

Đất trồng cần loại đất tơi, xốp như đất phù sa, đất trồng màu. Phân bón tốt nhất là tro bếp, phân kali. Khi cây có hoa, cần ngắt hoa đi để củ được to và tốt.

Sau khi trồng 6 tháng rưỡi có thể thu hoạch. Năng suất 1 hecta cho từ 3 đến 7 tấn, tùy theo vụ trồng và cách chăm sóc.

Củ sinh địa hái về có thể bảo quản trong cát ẩm gọi là sinh địa tươi hay sinh địa hoàng tươi, có màu vàng đỏ trông như củ khoai nghệ.

Nếu rửa sạch, sấy khô hoặc phơi khô (nên áp dụng sấy tốt hơn) ta sẽ được vị sinh địa khô hay sinh địa.

Thục địa hay thục địa hoàng là sinh địa chế biến một cách đặc biệt. Cách chế biến thay đổi tùy theo địa phương và tùy theo người chế biến chưa thống nhất.

Sau đây là một phương pháp giới thiệu trong các tài liệu của Trung Quốc: "Chọn các củ sinh địa to, ngâm nước, cạo sạch đất, lấy sinh địa vụn nát nấu lấy nước, nước đó tẩm sinh địa xong rồi đem đồ, đồ xong lại phơi, phơi khô lại tẩm. Tẩm và đồ như vậy 9 lần (gọi là cửu chưng cửu sái; chưng = đồ, sái = phơi = 9 lần đồ, 9 lần phơi) khi màu thục đen nhánh là được".

Khi nấu cần chú ý dùng đồ sành, tránh dùng đồ đồng vì theo sách cổ, nếu dùng đồ đồng để nấu nam giới uống sẽ bại thận, tóc bạc, phụ nữ dùng sẽ tổn huyết.

- Theo Lý Thời Trân (trong Bản thảo cương mục) nên tán sa nhân với rượu mà nấu thì thục địa sẽ tốt, vì địa hoàng tính rất trệ, sa nhân nhẹ và thơm sẽ điều hòa được ngũ tạng.

- Có tác giả khác lại cho rằng không cần chế thành thục địa vì thời Trương Trọng Cảnh (một danh y Trung Quốc thời cổ) người ta không chế thục địa, mà chỉ dùng sinh địa.

Ở nước ta, có nơi chế thục địa như sau: "Cho sinh địa vào thùng (sức chứa cả nước lẫn củ độ 100kg): Củ to xuống dưới cũ nhỡ ở giữa, nhỏ lên trên. Cứ 80kg sinh địa, cho 10 lít rượu 40o. Đun lửa lớn cho đến khi sôi. Khi đã sôi, cho nhỏ lửa. Giữ như vậy 6-8 giờ cho đến khi cạn nước. Trong thời gian đun, cách 1 giờ lại múc nước ở dưới nồi tưới lên củ cho thấm đều. Sau đó lấy ra phơi. Sau 3 ngày phơi lại đem nấu lần thứ hai, nhưng thêm 2kg gừng giã nhỏ, cho vào nước khuấy đều, lọc lấy nước. Sau đó vớt ra phơi, rồi lại nấu, làm như vậy 5-7 lần đến khi màu thục đen nhánh là được.".

Do cách chế biến khác cho nên sinh địa và thục địa có tính chất khác nhau. Vì thục địa có thêm tác dụng của sa nhân, hay gừng, và vì nấu lâu, các chất ở trong có thể thay đổi.

C. THÀNH PHẦN HÓA HỌC

Trong sinh địa, các nhà nghiên cứu Nhật Bản (1928) và Triều Tiên (1932) đã lấy ra được các chất manit C6H8(OH)6, rehmanin là một glucozit, glucoza và một ít caroten.

Gần đây có tác giả (Trung Quốc) cho rằng trong sinh địa có ancaloit.

Chất manit có tinh thể không màu, hơi ngọt dễ tan trong nước, hơi tan trong cồn, không tan trong ête, độ chảy 165-166º, tỷ trọng 1,52, nhiệt độ sẽ làm cho manit chuyển thành manitan C6H12O5 và manid C6H10O4.

Năm 1971, các nhà nghiên cứu Nhật Bản đã nghiên cứu vị sinh địa Hoài Khánh (Rehmannia glutinosa Libosch forma hueichingensis Hsiao) đã chiết được những chất như sau:

   - Từ dịch chiết bằng mentanol cô cạn rồi pha loãng bằng nước và chiết lại bằng butanol. Bốc hơi butanol rồi lắc với ête để loại tạp chất. Phần còn lại cho sắc ký khí qua cột dùng chất hấp thụ là than hoạt: selit (1:1), khai triển bằng dung môi nước và cồn tăng dần. Trong phần phân đoạn cồn 5-10% có chất catalpol, một iridoit glucozit có độ chảy 207-209ºC, α22D=122º, hàm lượng 0,11% trong củ tươi.

   - Từ dịch chiết nước đã xác định được những thành phần sau đây: 15 axit amin và D-glucozamin (trong phân đoạn kiềm), axit photphoric (trong phân đoạn axit), phần chính còn lại (trong phân đoạn trung tính) là các cacbohydrat: D-glucoza, D-galactoza, D-fructoza, sucroza, vesbascoza, và D-mannitol. Chủ yếu là stachyoza với hàm lượng 48,3% (so với dược liệu khô).

   - Trong sinh địa tía (Rehmannia glutinosa var. purpurea) thì thành phần chủ yếu trong phân đoạn trung tính vẫn là sachyoza, còn trong phân đoạn kiềm là acginin với 4,2%, trong phân đoạn axit là axit γ-aminobutyric với 3%.

Catalpol có tác dụng hạ thấp đường huyết trên súc vật thí nghiệm. Ngoài ra còn có tác dụng lợi tiểu và tẩy nhẹ.

IMG

D. TÁC DỤNG DƯỢC LÝ

1. Tác dụng đối với huyết đường:

   - Năm 1930, Mẫn Binh Kỳ (Nhật Bản) đã báo cáo sinh địa có tác dụng hạ huyết đường, sắc nước sinh địa cho thỏ uống không có hiện tượng huyết đường tăng, lúc đầu thấy có tác dụng ức chế, tác dụng ức chế này rất mạnh.

   - Trong cồn ngâm sinh địa có chứa chất rehmanin có lẽ đó là thành phần gây hạ huyết đường.

   Năm 1932 Kim Hạ Thực (Nhật Bản) đã tiêm dưới da cho thỏ, chất rehmanin với liều 0,5g/1kg thể trọng rồi theo dõi ảnh hưởng đối với huyết đường thì thấy sau 30 phút lượng huyết đường giảm xuống, 4 giờ sau lượng huyết hạ thấp nhất, rồi dần dần trở lại bình thường, 7 giờ sau khi tiêm, lượng huyết trở lại mức bình thường.

   Nhưng chưa rõ rehmanin có tác dụng ức chế đối với huyết đường tăng cao do adrenalin hay không, chỉ mới thấy có tác dụng ức chế đối với lượng natri clorua.

   Năm 1935, Kinh Lợi Bân và Thạch Nguyên Cao báo cáo: Dùng cồn 70º chiết suất sinh địa rồi chế thành cao lỏng (1ml tương đương 1g sinh địa) tiêm vào dưới da thì với liều 2ml/1kg thể trọng và cho uống với liều 4ml/1kg thể trọng,  rồi cứ cách 1 giờ lại định lượng huyết đường một lần (định lượng theo phương pháp Deniges), tiến hành tất cả 5 lần định lượng. Kết quả là tiêm thuốc dưới da làm cho lượng huyết đường giảm xuống; 4 giờ sau khi tiêm, lượng đường xuống rõ nhất, sau đó trở lại bình thường, uống sinh địa cũng làm lượng đường giảm xuống nhưng không bằng tiêm.

   Các ông còn dùng nước sắc đảng sâm (xem vị này) với liều 4ml/1kg thể trọng rồi lại tiêm dung dịch sinh địa 2ml/1kg thể trọng, thì thấy sinh địa có khả năng ức chế khả năng của các hợp chất cacbon hydrat, làm déo dài sự tăng lượng huyết đường.

   Năm 1945, Georges Gabriel R. và đồng sự đã báo cáo dùng cồn 80º chiết suất sinh địa và chế thành cao (1ml tương đương 2g sinh địa), loại các hợp chất có đường đi rồi tiến hành thí nghiệm trên thỏ để theo dõi ảnh hưởng đối với huyết đường. Kết quả 10ml cao sinh địa tiêm vào bắp thịt thỏ có thể hạ 2/3 huyết đường do adrenalin gây ra, tiêm cao sinh địa trước khi tiêm adrenalin thì có thể đề phòng hiện tượng huyết đường quá cao.

   Tiêm 20ml cao sinh địa vào bắp thịt một con chó nặng 4,5kg có thể hạ thấp lượng huyết đường do tiêm 20ml dung dịch 25% glucoza đưa đến huyết đường quá cao; nếu cho uống cũng có kết quả. Các ông cũng đã nêu lên rằng hoạt chất gây hạ huyết đường trong sinh địa là một chất tan trong nước, trung tính màu vàng nhạt giống như dầu, có thể có chứa sunfua và nitơ.

2. Tác dụng đối với huyết quản:

   Năm 1936 Kinh Lợi Bân và Thạch Nguyên Cao đã báo cáo: sinh địa ngoài tác dụng làm hạ huyết đường, còn có tác dụng đối với mạch máu ở tim. Các ông đã dùng dung dịch 0,1-0,5% cao sinh địa trong nước Locke Ringer trên tim ếch cô lập thấy rằng liều nhỏ không có tác dụng rõ rệt, liều trung bình có tác dụng mạnh tim; tim càng yếu, tác dụng càng rõ rệt, liều cao có thể làm cho tâm thất ngừng co bóp.

   Tiêm nước sinh địa vào tĩnh mạch thỏ hoặc chó đã gây mê, có thể làm tăng huyết áp, nhưng nếu tiêm vào tĩnh mạch chó gây mê đã cắt bỏ não, huyết áp không tăng, do đó các ông đã kết luận là nguồn gốc tăng huyết áp là do trung khu thần kinh.

   Nếu pha cao sinh địa trong dịch Locke - Ringer rồi dùng phương pháp Trendelenberg cho vào mạch máu thì thấy liều nhỏ làm co mạch, liều lớn làm dãn mạch.

3. Tác dụng lợi tiểu:

   Năm 1936, hai ông Kinh Lợi Bân và Thạch Nguyên Cao theo phương pháp đếm số giọt nước tiểu của chó gây mê bằng cloral hydrat được tiêm thuốc sinh địa vào tĩnh mạch thì thấy lượng nước tiểu tăng lên, do đó kết luận sinh địa có tác dụng lợi tiểu.

4. Tác dụng cầm máu:

   Năm 1939, một tác giả Nhật Bản đã dùng cồn chiết suất được tinh thể màu vàng hình trâm, thí nghiệm tìm ảnh hưởng đối với thời gian đông máu, thấy có khả năng rút ngắn thời gian đông máu của thỏ và kết luận địa hoàng có tác dụng cầm máu.

5. Tác dụng đối với vi trùng:

   Năm 1952, Đặng Vũ Phi (Trung Quốc) đã báo cáo sinh địa có tác dụng ức chế sự sinh trưởng kén một số vi trùng.

E. CÔNG DỤNG VÀ LIỀU DÙNG

Do tác dụng ức chế huyết đường, lợi tiểu và mạnh tim, sinh địa được dùng trong bệnh đường tiện (đi đái đường), thiếu máu, suy nhược, khuynh hướng chảy máu.

Liều dùng: Ngày uống 9-15g dưới dạng thuốc sắc hay thuốc cao. Thường dùng phối hợp với các vị thuốc khác.

Theo kinh nghiệm cổ, sinh địa và thục địa đều là thần dược (thuốc quý rất tốt) để chữa bệnh về huyết, nhưng sinh địa thì mát huyết, người nào huyết nhiệt nên dùng, thục địa ôn và bổ thận, người nào huyết suy thì nên dùng.

Hoặc có tài liệu nói: "Năng lực của sinh địa là bổ chân âm, lương nhiệt huyết, là vị thuốc bổ dương, cường tráng".

Còn thục địa bổ tinh tủy, nuôi can thận, sáng tai mắt, đen râu tóc là thuốc tư dưỡng, cường tráng, những người lao thần khổ trí lo nghĩ hại huyết, túng dục hao tinh nên dùng thục địa.

Những người tỳ vị hư hàn không nên dùng.

Theo tài liệu cổ:

   - Sinh địa có vị ngọt, đắng, tính hàn; vào 4 kinh Tâm, Can, Thận và Tiểu trường. Sinh địa có tác dụng thanh nhiệt, mát máu (khô có tác dụng tư âm, dưỡng huyết); dùng chữa thương hàn ôn bệnh, yết hầu sưng đau, huyết nhiệt tân dịch khô kiệt, thổ huyết, băng huyết, kinh nguyệt không đều, động thai.

   - Thục địa vị ngọt, tính hơi ôn; vào 3 kinh Tâm, Can và Thận. Có tác dụng nuôi thận, dưỡng âm bổ thận, làm đen râu tóc, chữa huyết hư, kinh nguyệt không đều, tiêu khát, âm hư ho, suyễn.

Các đơn thuốc bổ có sinh địa và thục địa:

   1. Bài thuốc lục vị địa hoàng hoàn chữa đau đầu, chóng mặt, cổ khô đau, miệng lưỡi lở loét, tai ù, răng lung lay, lưng đau gối mỏi, di tinh, mộng tinh, mồ hôi trộm, phụ nữ kinh nguyệt không đều, trẻ con gầy yếu: Thục địa 320g (8 lạng); sơn thù du, sơn dược hay hoài sơn mỗi vị 160g (4 lạng); mẫu đơn bì, bạch phục linh, trạch tả mỗi vị 120g (3 lạng). Năm vị sau sấy khô tán nhỏ, giã thục địa cho thật mềm nhũn, trộn đều, thêm mật ong viên thành viên bằng hạt ngô. Ngày uống 20-30 viên (8-12g), chia hai lần uống trong 15 phút trước khi ăn cơm.

   2. Bài thuốc Kinh ngọc cao (bài thuốc bổ của Chu Đan Khê) dùng trị ho khan, bệnh lao: Sinh địa 2,400kg (4 cân ta), bạch phục linh 480g (12 lạng ta), nhân sâm 240g (6 lạng), mật ong trắng 1200g (2 cân ta). Giã sinh địa vắt lấy nước, thêm mật ong vào, nấu sôi, thêm bạch phục linh và nhân sâm đã tán nhỏ, cho vào lọ, đậy kín, đun cách thủy 3 ngày 3 đêm, để nguội. Mỗi lần uống 1-2 thìa, ngày uống 2-3 lần.

   3. Bài thuốc hoàng liên viên (theo sách Thiên Kim Phương) chữa gầy yếu có thể trị đường niệu (đái đường): Sinh địa 800g, hoàng liên 600g. Giã sinh địa vắt lấy nước, tẩm vào hoàng liên, lấy hoàng liên phơi khô rồi  tẩm, cứ như vậy cho đến hết nước sinh địa. Tán nhỏ hoàng liên. Thêm mật vào  viên thành viên bằng hạt ngô. Mỗi lần uống 20 viên, mỗi ngày uống 2-3 lần.

Nguồn: Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tác giả: Giáo sư Tiến sĩ khoa học ĐỖ TẤT LỢI



Xin vui lòng ghi rõ nguồn http://www.dotatloi.com khi phát hành lại thông tin.


Tuyên bố miễn trừ trách nhiệm:
Thông tin trên www.dotatloi.com chỉ phục vụ nghiên cứu học tập và mở rộng kiến thức. Không sử dụng làm căn cứ để tiến hành chẩn trị trên lâm sàng. Thông tin trên www.dotatloi.com có thể được trích dẫn, thu thập từ các ấn phẩm, các trang tin điện tử liên quan trong nước và ngoài nước. Nếu phát sinh vấn đề bản quyền, kính đề nghị phản hồi cho chúng tôi.

Viết bình luận

Để thuận tiện cho việc đăng tải, xin vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.
Chúng tôi mong muốn nhận được những bình luận theo hướng mở rộng hoặc bổ sung thông tin liên quan đến bài viết.
Chúng tôi sẽ khóa những bình luận có ngôn từ mang tính kích động hoặc bất nhã.

focus Công cộng
04/06/2025 08:56 CH

- 穿心蓮 (穿心莲). Còn gọi là nguyễn cộng, lam khái liên, khổ đảm thảo, xuyên tâm liên, roi des amers (Pondichery hồi thuộc Pháp) - green chireta (Anh). Tên khoa học Andrographis paniculata (Burum.f.) Nees (Justicia paniculata Burm.f.). Thuộc họ Ô rô (Acanthaceae).

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu
Tên vị thuốc Mô tả
Thần khúc - 神曲. Còn gọi là lục thần khúc, lục đình khúc, kiến thần khúc. Tên khoa học Massa medicata fermentata. Thần khúc là một vị thuốc rất phổ cập để chữa bốn mùa cảm mạo, ăn uống không tiêu v.v... Nhưng thần khúc không phải do một cây thuốc nào cung cấp mà gồm nhiều vị thuốc phối hợp với bột mì hoặc bột gạo tạo nên một môi trường đặc biệt gây mốc rồi phơi khô. Vì lúc đầu thần khúc chỉ gồm có 6 vị thuốc phối hợp với nhau, ủ cho lên mốc vào những ngày 5 tháng 5, ngày 6 tháng 6 hoặc trước ngày 20 tháng 7 (âm lịch), những ngày này theo mê tín cũ là những ngày các thần hội họp với nhau do đó thành tên (lục = sáu, thần = ông thần). Nguồn gốc thần khúc ở tỉnh Phúc Kiến (Trung Quốc) vì vậy còn có tên kiến thần khúc (thần khúc của Phúc Kiến).
Thàn mát - 鬧魚崖豆 (闹鱼崖豆). Còn gọi là mác bát, hột mát, duốc cá, thăn mút. Tên khoa học Milletia ichthyochtona Drake. Thuộc họ Cánh bướm Fabaceae (Papilionaceae). Hạt cây thàn mát được nhân dân miền núi nước ta dùng để duốc cá (làm cho cá say thuốc mà bắt).
Thăng ma - 升麻. Trên thị trường, vị thăng ma do nhiều cây khác nhau cung cấp. Chủ yếu là những cây thuộc họ Mao lương (Ranunculaceae), nhưng vùng Quảng Đông, Quảng Tây giáp nước ta người ta dùng rễ một cây thuộc họ Cúc với tên thăng ma. Những vị thăng ma thường gặp là: (1) Thiên thăng ma - (Rhizoma Cimicifugae heracleifoliae) - là thân rễ khô của cây đại tam diệp thăng ma (Cimicifuga heracleifolia Komar.), thuộc họ Mao lương (Ranunculaceae); (2) Bắc thăng ma - (Rhizoma Cimicifugae dahuricae) - là thân rễ khô của cây bắc thăng ma hay đông bắc thăng ma - (Cimicifuga dahurica Maxim.) thuộc họ Mao lương (Ranunculaceae); (3) Tây thăng ma - Còn gọi là lục thăng ma hay xuyên thăng ma (Rhizoma Cimicifugae foetidae) - là thân rễ khô của cây thăng ma (Cimicifuga foetida L.) thuộc họ Mao lương (Ranunculaceae); (4) Quảng đông thăng ma (Radix Serratulae) - là rễ khô của thăng ma (Serratula sinensis S. Moore.) thuộc họ Cúc Asteraceae (Compositae).
Thanh cao - 青蒿. Còn gọi là thảo cao, hương cao, thanh hao. Tên khoa học Artemisia apiacea Hance. Thuộc họ Cúc Artemisia (Compositae). Thanh cao (Herba Artemisiae apiaceae) là toàn bộ phận trên mặt đất cây thanh cao phơi hay sấy khô. Tên thanh hao còn dùng để chỉ một cây nữa (xem chú thích ở dưới) cần chú ý để tránh nhầm lẫn.
Thanh cao hoa vàng - 黄花蒿. Còn gọi là thanh hao, thanh cao, thảo cao. Tên khoa học Artemissia annua L. Thuộc họ Cúc Asteriaceae (Compositae).
Thanh đại - 青黛. Thanh đại (Indigo pulverata levis) là màu xanh chế từ nhiều cây khác nhau, chủ yếu là các cây sau đây: 1. Cây chàm (Indigofera tinctoria L.) thuộc họ Cánh bướm (Fabaceae); Nghể chàm (Polygonum tinctorium Lour) thuộc họ Rau răm (Polygonaceae); Cây chàm Strobilanthes cusia Bremek (hay strobilanthes flaccidifolius Ness), còn gọi là cây chàm mèo thuộc họ Ô rô (Acanthaceae); 4. Một số cây khác chưa thấy ở nước ta, như cây Isatis tinctoria L., họ Chữ thập (Brassicaceae) và cây Isatis indigotica Fort, cũng thuộc họ Chữ thập (Brassicaceae).
Thanh long - 量天尺. Còn gọi là cây mắt rồng, oeil de dragon (Pháp). Tên khoa học Hylocereus undulatus (Haw.) Britt & Rose. Thuộc họ xương rồng (Cactaceae).
Thanh ngâm - 苦玄參 (苦玄参). Còn gọi là mật đất, cây mật cá, sản đắng, thằm ngăm đất. Tên khoa học Curanga amara Juss. Thuộc họ Hoa mõm chó (Scrophulariaeae).
Thành ngạnh - 黄牛木. Còn gọi là cây đỏ ngọn (Vĩnh Phú), lành ngạnh, ngành ngạnh, may tiên, ti u (Lai Châu). Tên khoa học Cratoxylon prunifolium Dyer (Cratoxylon pruniflorum Kurtz). Thuộc họ Ban (Hypericaceae).
Thảo đậu khấu - 草豆蔻. Còn gọi là thảo khấu nhân, ngẫu tử. Tên khoa học Alpnia katsumadai Hayt. Thuộc họ Gừng (Zingiberaceae). Thảo đậu khấu (Semen Alpiniae katsumadai) là hạt phơi hay sấy khô lấy từ quả gần chín của cây thảo khấu (Alpinia katsumadai).
Thảo quả - 草果. Còn gọi là đò ho, tò ho, mac hâu, may mac hâu (Thái). Tên khoa học Amomum tsao-ko Crev. et Lem. (Amomum aromaticum Roxb. Amomun medium Lour.). Thuộc họ Gừng (Zingiberaceae).
Thảo quyết minh - 草决明. Còn gọi là quyết minh, hạt muồng, đậu ma, giả lục đậu, giả hoa sinh, lạc giời. Tên khoa học Cassia tora L. Thuộc họ Vang (Caesalpiniaceae). Ta dùng thảo quyết minh (Semen Cassiae) là hạt phơi hay sấy khô của cây thảo quyết minh.
Thầu dầu - 蓖麻. Còn gọi là đu đủ tía, dầu ve, tỳ ma. Tên khoa học Ricinus communis L. Thuộc họ Thầu dầu (Euphorbiaceae). Cây thầu dầu cung cấp các vị thuốc sau dây: (1) Dầu thầu dầu - tỳ ma du (Oleum Ricini) là dầu ép từ hạt cây thầu dầu. (2) Hạt thầu dầu - tỳ ma tử là hạt phơi khô của cây thầu dầu. (3) Lá thầu dầu (Folium Ricini) là lá tươi của cây thầu dầu.
Thị - 黃柿. Còn gọi là thị muộn. Tên khoa học Diospyros decandra Lour. Thuộc họ Thị (Ebenaceae).
Thị đế - 柿蒂. Còn gọi là thị đinh, tai hồng, hồng. Tên khoa học Diospyros kaki L. f. Thuộc họ Thị (Ebenaceae). Thị đế (Calyx kaki) là tai hồng phơi hay sấy khô. Cây hồng có tên Trung Quốc là thị: Đế là tai, là đế.
Thìa là - 蒔蘿 (莳萝). Còn gọi là rau thìa là, phăk si (Lào-Vientian), aneth (Pháp). Tên khoa học Anethum graveolens L. (Peucedanum graveolens Benth. et Hook.). Thuộc họ Hoa tán Apiaceae (Umbelliferae). Thìa là cho quả dùng làm thuốc.
Thiên đầu thống - 破布木. Còn gọi là cây lá trắng, cây ong bầu, trường xuyên hoa. Tên khoa học Cordia obliqua Willd. (Corlia dichotoma Forst). Thuộc họ Vòi voi (Borraginaceae).
Thiên đông môn - 天門冬. Còn có tên là thiên môn, thiên đông, dây tóc tiên. Tên khoa học Asparagus cochinchinensis (Lour.) Merr. (Asparagus lucidus Lindl.). Thuộc họ Hành tỏi (Liliaceae). Ta dùng rễ khô (Radix Asparagi) của cây thiên môn đông.
ĐỐI TÁC - LIÊN KẾT
[ Lên đầu trang ]