Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu

Ô ĐẦU VÀ PHỤ TỬ - 烏頭 附子 (乌头 附子)

(Đang dùng trong đông y)

Còn gọi là xuyên ô, thảo ô.

Tên khoa học Aconitum sinense Paxt.

Thuộc họ Mao lương (Ranuneulaceae).

Ô ĐẦU VÀ PHỤ TỬ, 烏頭 附子, 乌头 附子, xuyên ô, thảo ô, Aconitum sinense Paxt., họ Mao lương, Ranuneulaceae

Ô đầu phụ tử Trung Quốc - Aconitum sinense

Ô đầu và phụ tử để do rễ củ của một cây cung cấp, nhưng do cách chế biến khác nhau, nên được hai vị thuốc khác hẳn nhau:

   Ô đầu (Radix Aconiti) là rễ củ mẹ của cây ô đầu - Acontum sinense, đào về, rửa sạch phơi hay sấy khô. Vị thuốc này các vị lương y đều thống nhất coi là vị thuốc rấr độc. Hiện được xếp vào loại thuốc rất độc bảng A.

   Phụ tử là rễ củ con của cây ô đầu nói trên, nhưng đem về chế biến rồi mới dùng. Phụ tử lại chia ra diêm phụ, hắc phụ và bạch phụ củ, bạch phụ phiếm. Các vị lương y có người coi là độc, nhưng có vị coi là không độc vì có thể dùng hàng gam đến 40-50g hay hơn nữa.

A. MÔ TẢ CÂY

Cây ô đầu là loại cỏ sống lâu năm, cao chừng 0,60-1m. Tên cây trước đây nhiều tác giả đã xác định là Aconitum sinense Paxt, nhưng gần đây có tác giả đã xác định lại là Aconitum carmichaeli Dẽb. (Trung dược chí tập 1, Bắc Kinh, 1961).

Rễ phát triển thành củ, có củ mẹ, củ con như cây âu ô đầu. Củ hái ở những cây trồng có thể tới 5cm đường kính. Lá mọc so le, phiến lá rộng 5-12cm, xẻ thành 3 thùy, 2 thùy 2 bên lại xẻ làm 2, thùy giữa lại xẻ làm 3 thùy con nữa. Mép các thùy đều có răng cưa thô, to. Cụm hoa dài 10-20cm, hoa màu xanh tím, quả dài 2mm. Hoa nở vào tháng 6-7. Quả thu hoạch vào tháng 7-8.

B. PHÂN BỐ, THU HÁI VÀ CHẾ BIẾN

Cây này hiện chưa được trồng ở nước ta. Chủ yếu mọc hoang và được trồng ở Trung Quốc (Tứ Xuyên, Quý Châu, Vân Nam, Thiểm Tây, Cam Túc).

Củ thu hái vào cuối tháng 6 (hạ chí) đầu tháng 7 (tiểu mãn). Tùy theo yêu cầu muốn có ô đầu, phụ tử hay hắc phụ lựa chọn những củ và chế biến khác nhau như sau:

   Ô đầu chọn những củ mẹ (khác với âu ô đầu, chỉ lấy củ con) cắt bỏ rễ con, rửa sạch đất phơi hay sấy khô. Thuốc rất độc.

   Diêm phụ còn gọi là phụ tử muối, hay sinh phụ tử, phụ tử sống. Chọn những củ con to nhất, cắt bỏ rễ con, rửa sạch cho vào vại, thêm vào đó magiê clorua (đảm ba), muối ăn và nước. Cứ 100kg phụ tử thì dùng 40kg magiê clorua, 30kg muối và 60 lít nước. Ngâm trong 10 ngày lấy ra phơi; phơi khô lại cho vào vại thêm nước, muối và magiê clorua để lúc nào cũng ngâm xâm xấp các củ. Sau đó mỗi ngày lại lấy ra phơi, tối lại ngâm. Thỉnh thoảng lại thêm muối, magiê clorua để lúc nào cũng giữ được nồng độ cũ. Cuối cùng phơi nắng để muối thấm vào tới giữa củ, mặt ngoài thấy có muối kết tinh là được. Loại phụ tử này được nhập vào nước ta với hình thức đựng trong các vại, trông giống như những củ khoai sọ, dài 6-10cm, quãng rộng có thể đạt tới 4-6cm. Khi dùng có người chỉ rửa sạch hết muối, thái mỏng, phối hợp với các vị thuốc khác, đặc biệt cam thảo và gừng sống (sinh khương) sắc kỹ gạn lấy nước mà uống.

   Chúng tôi đã có dịp uống một đơn thuốc có tới 80g sinh phụ tử phối hợp với cam thảo, gừng sống, sắc đặc, đồng thời còn chứng kiến có người dùng tới 50-200g sinh phụ trong một ngày mà lại uống luôn trong nhiều ngày.

   Tuy nhiên nhiều người thường chỉ dám dùng sau khi đem sinh phụ trên nấu lại nhiều lần với đậu đen.

   Hắc phụ: Chọn những củ con, to trung bình, rửa sạch đất cát, cho vào vại có chứa dung dịch magiê ngâm vài ngày, thông thường cứ 100kg phụ tử sống dùng 40kg magiê clorua và 20kg nước. Sau đó cứ để như vậy, đun sôi 2-3 phút, lấy ra rửa sạch, để nguyên cả vỏ, thái thành từng miếng mỏng chừng 5mm rồi lại ngâm vào nước magiê clorua nữa, cuối cùng thêm đường đỏ và dầu hạt cải mà tẩm và sao cho đến khi có màu nước chè đặc, cuối cùng lại dùng nước rửa cho đến khi hết vị cay tê là được, đem ra phơi khô hoặc sấy khô. Xem như vậy ta thấy chất aconitin có thể giảm đi rất nhiều, định lượng ancaloit cũng xác nhận như vậy.

   Bạch phụ: Chọn những củ con nhỏ, rửa sạch, cho vào vại ngâm với nước có magiê clorua vài ngày, sau đó đem đun cho tới khi chín tới giữa củ, lấy ra bóc vỏ đen, thái thành từng miếng mỏng dày chừng 3 mm, rồi cũng đem rửa cho tới khi  hết vị cay, hấp chín, phơi khô, sau đó đem xông hơi diêm sinh cuối cùng phơi  khô là được. Xem như vậy bạch phụ lại có thể chứa ít ancaloit hơn hắc phụ.

Theo tài liệu cổ: Ô đầu phụ tử đều có vị cay, ngọt, tính đại nhiệt, có độc; vào 12 đường kính. Phụ tử có tác dụng hồi dương cứu nghịch, bổ hỏa, trợ dương, trục phong hàn, thấp tà; ô đầu sưu phong, táo thấp khứ hàn; phụ tử dùng chữa mồ hôi toát ra nhiều quá, vong dương (mất dương), chân tay quờ quạng, bụng quặn đau, dương hư, sợ lạnh, mồ hôi trộm, ngực bụng lạnh đau, tả lỵ lâu ngày, phong hàn thấp tỳ (tê bại) đau nhức thận dương không đủ, cước khí, thủy thũng, mọi chứng trầm hàn cố lãnh. Ô đầu dùng chữa phong hàn thấp tỳ, các khớp sưng đau, chân tay co quắp, bán thân bất toại (liệt nửa người), đại hàn sinh đau bụng, âm thư lâu ngày không vỡ mủ, vết loét lâu ngày không liền miệng.

Những người âm hư, dương thịnh, phụ nữ có thai không dùng được. Ô đầu không được dùng chung với bán hạ, quá lâu, bỗi mẫu bạch cập.

Mặc dầu sinh phụ, hắc phụ hay bạch phụ đã được chế biến như vậy rồi nhưng khi dùng có người còn chế biến như vậy rồi nhưng khi dùng có người còn chế với đậu đen hay ngâm nước với nhiều lần rồi mới dám dùng. Chúng tôi thấy cũng cần theo dõi nghiên cứu để đi tới thống nhất một phương pháp bào chế phụ tử, có như vậy mới dễ đánh giá tác dụng trị bệnh của các loại phụ tử.

C. THÀNH PHẦN HÓA HỌC

Qua các tài liệu của Trung Quốc và Nhật Bản, trong ô đầu và phụ tử Trung Quốc cũng có những hoạt chất như âu ô đầu.

Sơ bộ nghiên cứu, chúng tôi cũng thấy như vậy, nhưng theo thứ tự từ nhiều đến ít như sau: Ô đầu, diêm phụ, hắc phụ, bạch phụ. Tuy nhiên chúng tôi tự hỏi, tại sao muốn giảm lượng ancaloit lại không dùng liều nhỏ cho khỏi lãng phí thuốc hoặc giả trong phụ tử, ngoài aconitin ra còn có chất gì khác tác dụng chăng? Trong khi sắc phối hợp với những vị thuốc khác có gì thay đổi không? Đó là những vấn đề tồn tại trong thành phần hóa học của phụ tử.

Một số băn khoăn của chúng tôi gần đây đã được các nhà nghiên cứu Trung Quốc và Nhật Bản trả lời như sau:

1. Trong quá trình sắc thuốc (đun sôi và giữ sôi lâu) các ancaloit của phụ tử chế, tiếp tục bị phân hủy.

2. Khi sắc đơn thuốc "Tứ nghịch thang" (phụ tử được phối hợp với cam thảo và gừng) độc tính của phụ tử còn giảm nhiều hơn so với nước sắc phụ tử riêng biệt, hoặc khi sắc phụ tử riêng, gừng riêng và cam thảo riêng rồi mới trộn ba dịch sắc riêng ấy với nhau. Người ta cho rằng, khi sắc phối hợp ba vị phụ tử, gừng và cam thảo, ngoài sự phân hủy aconitin bởi nhiệt, có thể còn sự hóa hợp giữa axit glucuronic của cam thảo với những ancaloit trong phụ tử.

3. Đông y không sử dụng các ancaloit độc trong phụ tử mà dùng các chất gây tác dụng cường tim trong ô đầu, phụ tử. Có lẽ chất "hồi dương cứu nghịch" hay "khởi tử hồi sinh" nói trong đông y là nằm ở đây. Tại Nhật Bản, người ta đã chiết từ nước sắc phụ tử chất higranim có tác dụng cường tim rất mạnh. Higranim rất bền với nhiệt độ, với áp suất, trong môi trường nước axit hóa, ở nồng độ 10g vẫn có tác dụng cường tim. Sau khi hấp 110-115ºC trong 40 phút, hiệu lực cường tim chỉ giảm 2 lần, trong khi đó DL-50 giảm độc tới 200 lần (Trung thảo dược học-trung văn).

4. Tác dụng cường tim còn liên quan đến sự có mặt của ion Ca++ trong nước sắc đơn thuốc có phụ tử. Nguồn ion Ca++ này một phần có trong axit canxiphotphoaconnitic trong phụ thử, một phần có trong nước muối, nước ót dùng chế phụ tử. Nước sắc phụ tử chế có tác dụng mạnh hơn nước sắc phụ tử sống (ô đầu) do nước sắc phụ tử chế có hàm lượng ion Ca++ nhiều hơn. Nếu loại các ion Ca++ khỏi nước sắc thì tác dụng cường tim cũng giảm đi khá nhiều (Trung dược hóa học, 832, Võ Xuân Minh-TCĐY 1983, 184).

D. CÔNG DỤNG VÀ LIỀU DÙNG

Trong đông y, ô đầu chỉ được dùng ngâm rượu để xoa bóp khi bị đau nhức, mỏi chân tay. Đặc biệt lắm mới có người dùng cho uống để chữa bán thân bất toại, chân tay co quắp, mụn nhọt vỡ lâu không liền miệng. Liều thường dùng là 3-4g, sắc uống hay ngâm rượu.

Phụ tử: Đông y coi là một vị thuốc hồi dương, khử phong hàn, dùng chữa một số triệu chứng nguy cấp, mạch gần như không có, ra nhiều mồ hôi (thoát dương) chân tay tê mỏi v.v... với liều 4-12g dưới dạng thuốc sắc. Dù sao dùng thuốc này cũng phải hết sức thận trọng, chưa quen không nên dùng. Một số người dùng với liều cao hơn, có khi tới 100g hay hơn, nhưng thường phối hợp với cam thảo, can khương và sắc rất kỹ và lâu.

Đơn thuốc có ô đầu phụ tử:

   - Chữa chân tay đau nhức, khớp xương sưng đau: Rượu phụ tử quế chi (đơn thuốc của Trương Trọng Cảnh) ô đầu 1g, quế chi 1g, cam thảo 1g, thược dược 2g, táo đỏ 4g, rượu 100ml. Ngâm trong 3 ngày, lọc bỏ bã lấy rượu. Ngày uống 60ml rượu này chia làm nhiều lần uống, chữa bệnh chân tay đau nhức, khớp xương sưng đau.

Chú ý:

   1. Bạch phụ tử còn dùng để chỉ hai vị thuốc khác: Rễ củ của cây Typhonium giganteum Engl. (cây này ở ta chưa thấy có) thuộc họ Ráy (Araceae) và cây san hô hay bạch phụ tử - Jatropha multifida L. thuộc họ Thầu dầu (Euphorbiaceae).

   2. Trên thị trường còn có bán một loại thuốc gọi là thảo ô là rễ một cây Acotium khác.

Nguồn: Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tác giả: Giáo sư Tiến sĩ khoa học ĐỖ TẤT LỢI



Xin vui lòng ghi rõ nguồn http://www.dotatloi.com khi phát hành lại thông tin.


Tuyên bố miễn trừ trách nhiệm:
Thông tin trên www.dotatloi.com chỉ phục vụ nghiên cứu học tập và mở rộng kiến thức. Không sử dụng làm căn cứ để tiến hành chẩn trị trên lâm sàng. Thông tin trên www.dotatloi.com có thể được trích dẫn, thu thập từ các ấn phẩm, các trang tin điện tử liên quan trong nước và ngoài nước. Nếu phát sinh vấn đề bản quyền, kính đề nghị phản hồi cho chúng tôi.

Viết bình luận

Để thuận tiện cho việc đăng tải, xin vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.
Chúng tôi mong muốn nhận được những bình luận theo hướng mở rộng hoặc bổ sung thông tin liên quan đến bài viết.
Chúng tôi sẽ khóa những bình luận có ngôn từ mang tính kích động hoặc bất nhã.

focus Cam thảo nam
29/05/2025 11:40 CH

- 野甘草. Còn có tên là dã cam thảo (Trung Quốc), thổ cam thảo (Trung Quốc), giả cam thảo. Tên khoa học Seoparia dulcis L. Thuộc họ Hoa mõm chó (Scrophulariaceae). Cam thảo nam (Herbra Sceopariae) là toàn cây tươi hoặc phơi khô sấy khô của cây cam thảo nam.

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu
Tên vị thuốc Mô tả
Thần khúc - 神曲. Còn gọi là lục thần khúc, lục đình khúc, kiến thần khúc. Tên khoa học Massa medicata fermentata. Thần khúc là một vị thuốc rất phổ cập để chữa bốn mùa cảm mạo, ăn uống không tiêu v.v... Nhưng thần khúc không phải do một cây thuốc nào cung cấp mà gồm nhiều vị thuốc phối hợp với bột mì hoặc bột gạo tạo nên một môi trường đặc biệt gây mốc rồi phơi khô. Vì lúc đầu thần khúc chỉ gồm có 6 vị thuốc phối hợp với nhau, ủ cho lên mốc vào những ngày 5 tháng 5, ngày 6 tháng 6 hoặc trước ngày 20 tháng 7 (âm lịch), những ngày này theo mê tín cũ là những ngày các thần hội họp với nhau do đó thành tên (lục = sáu, thần = ông thần). Nguồn gốc thần khúc ở tỉnh Phúc Kiến (Trung Quốc) vì vậy còn có tên kiến thần khúc (thần khúc của Phúc Kiến).
Thàn mát - 鬧魚崖豆 (闹鱼崖豆). Còn gọi là mác bát, hột mát, duốc cá, thăn mút. Tên khoa học Milletia ichthyochtona Drake. Thuộc họ Cánh bướm Fabaceae (Papilionaceae). Hạt cây thàn mát được nhân dân miền núi nước ta dùng để duốc cá (làm cho cá say thuốc mà bắt).
Thăng ma - 升麻. Trên thị trường, vị thăng ma do nhiều cây khác nhau cung cấp. Chủ yếu là những cây thuộc họ Mao lương (Ranunculaceae), nhưng vùng Quảng Đông, Quảng Tây giáp nước ta người ta dùng rễ một cây thuộc họ Cúc với tên thăng ma. Những vị thăng ma thường gặp là: (1) Thiên thăng ma - (Rhizoma Cimicifugae heracleifoliae) - là thân rễ khô của cây đại tam diệp thăng ma (Cimicifuga heracleifolia Komar.), thuộc họ Mao lương (Ranunculaceae); (2) Bắc thăng ma - (Rhizoma Cimicifugae dahuricae) - là thân rễ khô của cây bắc thăng ma hay đông bắc thăng ma - (Cimicifuga dahurica Maxim.) thuộc họ Mao lương (Ranunculaceae); (3) Tây thăng ma - Còn gọi là lục thăng ma hay xuyên thăng ma (Rhizoma Cimicifugae foetidae) - là thân rễ khô của cây thăng ma (Cimicifuga foetida L.) thuộc họ Mao lương (Ranunculaceae); (4) Quảng đông thăng ma (Radix Serratulae) - là rễ khô của thăng ma (Serratula sinensis S. Moore.) thuộc họ Cúc Asteraceae (Compositae).
Thanh cao - 青蒿. Còn gọi là thảo cao, hương cao, thanh hao. Tên khoa học Artemisia apiacea Hance. Thuộc họ Cúc Artemisia (Compositae). Thanh cao (Herba Artemisiae apiaceae) là toàn bộ phận trên mặt đất cây thanh cao phơi hay sấy khô. Tên thanh hao còn dùng để chỉ một cây nữa (xem chú thích ở dưới) cần chú ý để tránh nhầm lẫn.
Thanh cao hoa vàng - 黄花蒿. Còn gọi là thanh hao, thanh cao, thảo cao. Tên khoa học Artemissia annua L. Thuộc họ Cúc Asteriaceae (Compositae).
Thanh đại - 青黛. Thanh đại (Indigo pulverata levis) là màu xanh chế từ nhiều cây khác nhau, chủ yếu là các cây sau đây: 1. Cây chàm (Indigofera tinctoria L.) thuộc họ Cánh bướm (Fabaceae); Nghể chàm (Polygonum tinctorium Lour) thuộc họ Rau răm (Polygonaceae); Cây chàm Strobilanthes cusia Bremek (hay strobilanthes flaccidifolius Ness), còn gọi là cây chàm mèo thuộc họ Ô rô (Acanthaceae); 4. Một số cây khác chưa thấy ở nước ta, như cây Isatis tinctoria L., họ Chữ thập (Brassicaceae) và cây Isatis indigotica Fort, cũng thuộc họ Chữ thập (Brassicaceae).
Thanh long - 量天尺. Còn gọi là cây mắt rồng, oeil de dragon (Pháp). Tên khoa học Hylocereus undulatus (Haw.) Britt & Rose. Thuộc họ xương rồng (Cactaceae).
Thanh ngâm - 苦玄參 (苦玄参). Còn gọi là mật đất, cây mật cá, sản đắng, thằm ngăm đất. Tên khoa học Curanga amara Juss. Thuộc họ Hoa mõm chó (Scrophulariaeae).
Thành ngạnh - 黄牛木. Còn gọi là cây đỏ ngọn (Vĩnh Phú), lành ngạnh, ngành ngạnh, may tiên, ti u (Lai Châu). Tên khoa học Cratoxylon prunifolium Dyer (Cratoxylon pruniflorum Kurtz). Thuộc họ Ban (Hypericaceae).
Thảo đậu khấu - 草豆蔻. Còn gọi là thảo khấu nhân, ngẫu tử. Tên khoa học Alpnia katsumadai Hayt. Thuộc họ Gừng (Zingiberaceae). Thảo đậu khấu (Semen Alpiniae katsumadai) là hạt phơi hay sấy khô lấy từ quả gần chín của cây thảo khấu (Alpinia katsumadai).
Thảo quả - 草果. Còn gọi là đò ho, tò ho, mac hâu, may mac hâu (Thái). Tên khoa học Amomum tsao-ko Crev. et Lem. (Amomum aromaticum Roxb. Amomun medium Lour.). Thuộc họ Gừng (Zingiberaceae).
Thảo quyết minh - 草决明. Còn gọi là quyết minh, hạt muồng, đậu ma, giả lục đậu, giả hoa sinh, lạc giời. Tên khoa học Cassia tora L. Thuộc họ Vang (Caesalpiniaceae). Ta dùng thảo quyết minh (Semen Cassiae) là hạt phơi hay sấy khô của cây thảo quyết minh.
Thầu dầu - 蓖麻. Còn gọi là đu đủ tía, dầu ve, tỳ ma. Tên khoa học Ricinus communis L. Thuộc họ Thầu dầu (Euphorbiaceae). Cây thầu dầu cung cấp các vị thuốc sau dây: (1) Dầu thầu dầu - tỳ ma du (Oleum Ricini) là dầu ép từ hạt cây thầu dầu. (2) Hạt thầu dầu - tỳ ma tử là hạt phơi khô của cây thầu dầu. (3) Lá thầu dầu (Folium Ricini) là lá tươi của cây thầu dầu.
Thị - 黃柿. Còn gọi là thị muộn. Tên khoa học Diospyros decandra Lour. Thuộc họ Thị (Ebenaceae).
Thị đế - 柿蒂. Còn gọi là thị đinh, tai hồng, hồng. Tên khoa học Diospyros kaki L. f. Thuộc họ Thị (Ebenaceae). Thị đế (Calyx kaki) là tai hồng phơi hay sấy khô. Cây hồng có tên Trung Quốc là thị: Đế là tai, là đế.
Thìa là - 蒔蘿 (莳萝). Còn gọi là rau thìa là, phăk si (Lào-Vientian), aneth (Pháp). Tên khoa học Anethum graveolens L. (Peucedanum graveolens Benth. et Hook.). Thuộc họ Hoa tán Apiaceae (Umbelliferae). Thìa là cho quả dùng làm thuốc.
Thiên đầu thống - 破布木. Còn gọi là cây lá trắng, cây ong bầu, trường xuyên hoa. Tên khoa học Cordia obliqua Willd. (Corlia dichotoma Forst). Thuộc họ Vòi voi (Borraginaceae).
Thiên đông môn - 天門冬. Còn có tên là thiên môn, thiên đông, dây tóc tiên. Tên khoa học Asparagus cochinchinensis (Lour.) Merr. (Asparagus lucidus Lindl.). Thuộc họ Hành tỏi (Liliaceae). Ta dùng rễ khô (Radix Asparagi) của cây thiên môn đông.
ĐỐI TÁC - LIÊN KẾT
[ Lên đầu trang ]