Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu

BA ĐẬU - 巴豆

Còn gọi là mắc vát, cóng khói, bã đậu, giang tử, mãnh tử nhân, lão dương tử, ba nhân, mần để, cây để, cây đết, phổn (Hòa Bình).

Tên khoa học Croton tiglium L.

Thuộc họ Thầu dầu (Euphorbiaceae).

BA ĐẬU, 巴豆, mắc vát, cóng khói, bã đậu, giang tử, mãnh tử nhân, lão dương tử, ba nhân, mần để, cây để, cây đết, phổn, Croton tiglium L., họ Thầu dầu, Euphorbiaceae

Ba đậu - Croton tiglium

Cây ba đậu cho ta các vị thuốc sau đây:

   1. Hạt ba đậu (Semen Tiglii) là hạt ba đậu phơi khô.

   2. Dầu ba đậu (Oleum Tiglii) là dầu ép từ hạt ba đậu.

   3. Ba đậu sương là hạt ba đậu sau khi đã ép hết dầu đi rồi.

Vì vị thuốc giống hạt đậu, lại sản xuất ở Ba Thục (vùng Tứ Xuyên, Trung Quốc hiện nay) do đó có tên này.


A. MÔ TẢ CÂY

Ba đậu là một cây nhỡ cao 3-6m, cành nhẵn.

Lá mọc so le, nguyên, hình trứng, đầu nhọn, mép có răng cưa nhỏ, dài 6-8cm, rộng 4-5cm, cuống nhỏ, dài 1-2cm. Trông toàn thân cây thường thấy một số lá màu đỏ nâu làm cho cây dễ nhận.

Hoa mọc thành chùm dài 10-20cm, ở đầu cành, hoa cái ở phía dưới, hoa đực ở đỉnh, cuống nhỏ dài 1-3mm.

Quả nang, nhẵn, màu vàng nhạt, cao 2cm, có 3 mảnh vỏ khi chín tách ra.

Hạt hình trứng dài 10mm, rộng 4-6mm, ngoài có vỏ cứng, mờ, màu nâu xám (khác hạt thầu dầu bóng và có vân).

B. PHÂN BỐ, THU HÁI VÀ CHẾ BIẾN

Ba đậu mọc hoang và được trồng ở nhiều tỉnh miền Bắc nước ta, nhiều nhất tại các tỉnh miền núi: Hà Giang, Tuyên Quang, Hoà Bình, Bắc Thái, Trung Bộ cũng có. Còn mọc ở Trung Quốc (Vân Nam, Quảng Đông, Quảng Tây, Tứ Xuyên, Hồ Nam, Hồ Bắc).

Vào tháng 8-9, quả chín nhưng chưa nứt các mảnh vỏ, thì hái về phơi khô đập lấy hạt, phơi khô lần nữa là được. Cũng có khi để bảo quản dễ dàng hơn, người ta để nguyên cả quả, khi dùng mới đập lấy hạt.

C. THÀNH PHẦN HÓA HỌC

Trong hạt ba đậu có 30-50% dầu, 18% chất protein, một glucozit gọi là crotonozit (2 - oxy 6 - aminopurin - ribozit), một anbumoza rất độc gọi là crotin, một ancaloit gần như chất rixinin trong hạt thầu dầu, men lipaza và một số axit amin như acginin, lyxin, v.v...

IMG

Dầu ba đậu lỏng sền sệt, hơi có huỳnh quang, vị cay nóng (rất độc) tỷ trọng ở 25oC là 0,935-0,950, chỉ số xà phòng 102-118, tan trong cùng một thể tích cồn cao độ, nhưng nếu thêm nhiều cồn quá thì hỗn hợp sẽ phân thành 2 lớp, thành phần gây đi ỉa sẽ tan trong tầng cồn.

Dầu này tan trong ête, sunfua cacbon, axit axetic.

Trong dầu ba đậu ngoài các glyxerit thường gặp như stearin, panmitin, còn có glyxerit của các axit crotonic và tiglic là những axit đặc biệt trong hạt ba đậu. Thành phần tẩy trong dầu ba đậu là chất nhựa croton resin tức là este của một cồn gọi là phocbola (phorbol) với những axit tiglic, và một số axit khác. Tỷ lệ hoạt chất tẩy này trong dầu chừng 2-3% (theo Flaschemtrager et Wigner, 1942. Hel. Chim. Acta 25: 569).

Chất mang tên crotin chính gồm 2 chất croton-anbumin và cronton-globulin là chất độc đối với nguyên sinh chất (protoplasma), đôi khi có tác dụng làm vón máu. Độ độc của nó bị sức nóng làm giảm bớt. Tính chất của nó cũng giống như chất rixin trong hạt thầu dầu.

D. TÁC DỤNG DƯỢC LÝ

Dầu ba đậu là một chất gây phồng rất mạnh: Tác dụng trên da, người ta thấy da nóng bỏng và phồng lên, mọng nước, sau đó thành mụn tróc da.

Tác dụng chậm (thường 24 giờ trước khi có mủ) và bao giờ cũng chỉ tác dụng trên bề mặt thôi: Sau khi khỏi mụn, không có sẹo, trừ phi tại cùng một chỗ làm lại nhiều lần. Nếu da đã có sẹo cũ thì dầu không có tác dụng.

Uống trong, dầu ba đậu là một loại thuốc tẩy rất mạnh, với liều rất nhỏ (1/2 đến 2 giọt) đã gây tác dụng sau 1/2 đến 1 giờ. Đi ngoài 5 đến 10 lần, lúc đầu đặc, sau lỏng, bụng đau nhiều hay ít, nóng ở hậu môn.

Với liều cao hơn 2 giọt, gây viêm ruột và có triệu chứng ngộ độc: Nôn mửa, đi ngoài nhiều, toát mồ hôi và chết, 10 đến 20 giọt đủ giết một con ngựa.

Dùng liều nhỏ, liên tiếp cũng gây ngộ độc và chết.

E. CÔNG DỤNG VÀ LIỀU DÙNG

Thuốc dùng cả trong đông y và tây y nhưng cách dùng có khác nhau.

Theo tài liệu cổ: Ba đậu vị cay, tính nóng, rất độc; vào 2 kinh Vị và Đại tràng. Có tác dụng tả hàn tích, trục đờm, hành thủy.

Tây y chỉ dùng dầu ba đậu làm thuốc lùa bệnh, trong những trường hợp tê thấp, viêm phổi, đau ruột, viêm phế quản. Nếu dùng trên da bụng cần bảo vệ rốn bằng một miếng thuốc dán. Còn làm thuốc tẩy mạnh, dùng trong những trường hợp táo khó chữa, sau khi dùng những loại thuốc khác không có tác dụng. Nhưng thuốc rất độc xếp vào loại độc bảng A. Dùng ngoài với liều 6-7 giọt trộn với dầu khác như dầu lạc, dầu thầu dầu rồi dùng bút lông mà bôi để tránh phồng tay; thường bôi một diện tích nhỏ hơn diện tích định gây phồng. Uống trong với liều 1 giọt trộn với dầu hay ruột bánh mỳ. Liều tối đa một lần 0,05g; trong 24 giờ 0,10g. Gần đây ít dùng trong tây y vì nhiều nguy hiểm.

Trái lại, trong nhân dân, người ta ít sợ ba đậu hơn. Cũng công nhận có độc, nhưng do cách dùng khác cho nên đỡ nguy hiểm hơn. Thường dùng dưới hình thức ba đậu sương, nghĩa là hạt ba đậu ép bỏ hết dầu đi mới dùng với liều 0,01-0,05g lại thường phối hợp với nhiều vị thuốc khác.

Hoặc có khi dùng như sau (kinh nghiệm của nhân dân Campuchia): Cắt ngang đầu một quả chanh, lấy hết hột chanh ra, thay bằng ít hạt ba đậu, cho vào đun với 300ml nước cho đến khi hết nước và quả chanh khô thì giã nhỏ cả quả chanh và hạt ba đậu trong đó, rồi viên bằng viên nhỏ bằng hạt tiêu. Sấy khô để dành. Muốn đi ngoài một lần thì uống một viên, 2 lần thì uống 2 viên. Chế như vậy ít đau bụng hơn.

Ngoài công dụng làm thuốc, hạt ba đậu được dùng làm thuốc tẩm tên độc, thay củ ô đầu ở những nơi không có ô đầu.

Tại nhiều tỉnh miền Bắc nước ta và Trung Quốc, người ta còn dùng hạt ba đậu để duốc cá.

Đơn thuốc có dầu ba đậu:

   - Đơn tam vật bạch thang (của Trương Trọng Cảnh): Ba đậu sương 1g, cát cánh 3g, bối mẫu 3g. Tất cả tán bột, trộn đều. Mỗi lần uống 0,20g, dùng nước ấm mà chiêu. Chữa bệnh viêm niêm mạc dạ dày cấp tính, đau bụng.

   - Đơn thứ 2 chữa đau bụng viêm dạ dày (Diệp Quyết Tuyền): Ba đậu sương 0,50g, nhục quế 3g, trầm hương 2g, đinh hương 3g. Tất cả tán nhỏ, trộn đều. Mỗi lần dùng 0,50g đến 1g, dùng nước chiêu thuốc.

   - Chữa thủy thũng: Ba đậu 200mg, hạnh nhân 3g. Chế thành viên bằng hạt đậu xanh. Ngày 3 đến 6 viên. Uống đến khi lợi tiểu, đi ngoài nhuận thì thôi.

   - Kinh nghiệm nhân dân chữa ngộ độc do ba đậu: Uống nước hoàng liên, nước đậu đũa, nước lạnh.

Nguồn: Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tác giả: Giáo sư Tiến sĩ khoa học ĐỖ TẤT LỢI



Xin vui lòng ghi rõ nguồn http://www.dotatloi.com khi phát hành lại thông tin.


Tuyên bố miễn trừ trách nhiệm:
Thông tin trên www.dotatloi.com chỉ phục vụ nghiên cứu học tập và mở rộng kiến thức. Không sử dụng làm căn cứ để tiến hành chẩn trị trên lâm sàng. Thông tin trên www.dotatloi.com có thể được trích dẫn, thu thập từ các ấn phẩm, các trang tin điện tử liên quan trong nước và ngoài nước. Nếu phát sinh vấn đề bản quyền, kính đề nghị phản hồi cho chúng tôi.

Viết bình luận

Để thuận tiện cho việc đăng tải, xin vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.
Chúng tôi mong muốn nhận được những bình luận theo hướng mở rộng hoặc bổ sung thông tin liên quan đến bài viết.
Chúng tôi sẽ khóa những bình luận có ngôn từ mang tính kích động hoặc bất nhã.

Muối ăn
06/07/2025 08:59 CH

- 食鹽 (食盐). Còn gọi là thực diêm. Tên khoa học Natrium chloridum crudum. Muối ăn là những tinh thể hình lập phương dính với nhau thành hình tháp rỗng, không màu hay hơi đục bẩn, vị mặn, đặc biệt để ở những nơi ẩm ướt thì hay hút nước chảy ướt, nhưng khi rang...

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu
Tên vị thuốc Mô tả
Quế - 桂. Quế là một vị thuốc rất thường dùng trong đông y và tây y. Đông y coi quế là một vị thuốc rất quý. Tại Việt Nam có nhiều loài quế. Việc xác định tên những loài quế này chưa thật chắc chắn. Tuy nhiên chúng tôi sẽ giới thiệu những tài liệu đang phổ biến. Có 3 loại quế chính: (1) Quế Thanh Hóa, Nghệ An: Cinnamomum loureirii Nees; (2) Quế loại Trung Quốc: Cinnamomum cassia Blume; (3) Quế loại Xrilanca: Cinnamomum zeylanicum Nees. Ngoài ra còn một số loài khác nữa cũng được khai thác và sử dụng.
Quế quan - 錫蘭桂 (锡兰桂). Còn gọi là quế Xrilanca. Tên khoa học Cinnamomum zeylanicum Nees (Cinnamomum aromaticum Grah, Laurus cinnamomum Roxb.). Thuộc họ Long não (Lauraceae). Quế quan hay quế Xây lan là thứ quế đứng đầu trên thị trường quốc tế. Nước sản xuất chủ yếu quế này hiện nay là Xây lan tức là Xrilanca (gần Ấn Độ).
Quế Thanh Hóa - 清化桂. Còn gọi là nhục quế, quế Thanh, quế Quỳ, cannellier royal, cannellier d'Annam. Tên khoa học Cinnamomum loureirii Nees (Cinnamomum obtusifolium Nees var. loureirii perrot et Eberh; Láuru cinnamomum Lour.). Thuộc họ Long não (Lauraceae).
Quế Trung Quốc - 肉桂. Còn gọi là quế nhục, ngọc thụ, quế đơn, quế bì, sambor lo veng (Cămpuchia). Tên khoa học Cinnamomum cassia Blume (Cinnamomum obtusifilium var cassia Perrot et Eberh.). Thuộc họ Long não (Lauraceae). Trên thị trường quốc tế, quế bì (tên ghi trong Dược điển Trung Quốc 1953) hay thường gọi là quế Trung Quốc (Cannelle de Chine) đứng hàng thứ hai sau quế Xrilanca. Trong nước ta cũng có loài quế này. Ta dùng vỏ phơi khô Cortex Cinnamomi cassiae.
Quít - Trần bì - 橘 - 橘皮. Còn gọi là quyết, hoàng quyết, trần bì, thanh bì, mandarinier (Pháp). Tên khoa học Citrus deliciosa Tenore, Citrus nobilis var. eliciosa Swigle. Thuộc họ Cam quít (Rutaceae). Cây quít cho ta các vị thuốc sau đây: 1. Trần bì (Pericarpium Citri deliciosa) là vỏ quít phơi càng để lâu càng coi là quý và tốt. 2. Quất hạch (Semen Citri diliciosae) là hạt quít phơi khô. 3. Thanh bì (Pericarpium Citri immaturi) vỏ quả quít còn xanh.
Quy bản và cao quy bản - 龜板 (龟板), 龜板膠 (龟板胶). Còn có tên là yếm rùa, kim quy, quy giáp, cao yếm rùa. Tên khoa học Chinemya (Geoclemys) recvesil (Gray). Thuộc họ Rùa (Testudinidae). Người ta dùng yếm của con rùa hay quy bản, Carapax testudinis và cao chế từ yếm rùa (Colla carapacis Testudinis) còn gọi là cao quy bản hay quy bản giao.
Rắn - 蛇. Rắn dùng làm thuốc gồm nhiều loài, thường là những loài rắn độc. Người ta hay dùng 3 loài rắn độc mang tên rắn hổ mang, rắn cạp nong, rắn cạp nia. Nhưng những tên đó nhiều khi lại được dùng đẻ chỉ nhiều loài rắn khác nhau. Ta cần chú ý phân biệt. Rắn lại cung cấp cho ta nhiều bộ phận làm thuốc: Thịt rắn, xác lột (xà thoái) và nọc độc. Tây y thường chỉ dùng nọc rắn, đông y lại thường chỉ dùng thịt, mật và xác rắn lột.
Ráng trắc - 鐵線蕨 (铁线蕨). Còn có tên là đuôi chồn, thiết tuyến thảo, thạch trường sinh, capilaire de Montpellier, cheveux de Venus. Tên khoa học Adiantum capillus-veneris L. (A. capillus - Sw., A. emarginatum Bory). Thuộc họ Dương xỉ (Polypodiaceae). Tên Adiantum capillus - veneris do chữ Capillus là tóc. Veneris là Vệ nữ vì cây có cuống lá đen bóng đẹp như tóc của thần vệ nữ (Trong thần thoại Hy Lạp, Vệ nữ là một nữ thần đẹp). Thiết là màu đen, tuyến là sợi nhỏ vì cây có cuống lá nhỏ, màu đen.
Rau cần tây - 旱芹. Tên khoa học Apium graveolens L. Thuộc họ Hoa tán Apiaceae (Umbelliferae).
Rau đắng - 萹蓄. Còn gọi là biển súc, cây càng tôm, cây xương cá. Tên khoa hoc Polygonum aviculare L. Thuộc họ Rau răm (polygonaceae).
Rau đay - 長蒴黃麻 (长蒴黄麻). Còn gọi là rau đay quả dài, Corète potagère. Tên khoa học Corchorus olitorius L. Thuộc họ Đay (Tiliaceae).
Rau dừa nước - 過塘蛇 (过塘蛇). Còn gọi là thủy long, du long thái. Tên khoa học Jussiaea repens L. (Cubospermum palustre Lour.). Thuộc họ Rau dừa nước Oenotheraceae hoặc (Onagraceae).
Rau khúc - 鼠麴草. Còn gọi là khúc nếp, thử cúc thảo. Tên khoa học Gnaphalium indicum L. Thuộc họ Cúc Asteracea (Compositae).
Rau má ngọ - 杠板歸 (杠板归). Còn gọi là rau sông chua dây, thồm lồm gai, giang bản quy. Tên khoa học Polygonum perfoliatum L.. Thuộc họ Rau ram (Polygonaceae).
Rau mồng tơi - 落葵. Còn gọi là mồng tơi dỏ, mồng tơi tía, lạc quỳ, phak pang (Lào). Tên khoa học Basella rubra L. (Basellaalba L.). Thuộc họ Mồng tơi (Basellaceae).
Rau mùi - 胡荽. Còn gọi là hồ tuy, hương tuy, nguyên tuy, ngò, ngổ, ngổ thơm, coriandre, coriander (Anh), koriander (Đức). Tên khoa học Coriandrum sativum L. Thuộc họ Hoa tán Apiaceae (Umbelliferac). Quả mùi (Fructus Coriandri) ta thường gọi nhầm là hạt mùi là quả chín phơi hay sấy khô của cây mùi. Mùi còn gọi là hồ tuy vì hồ là nước Hồ (tên Trung Quốc cổ đặt cho các nước ở Ấn Độ, Trung Á), tuy là ngọn và lá tản mát; Xưa kia Chương Khiên người Trung Quốc đi sứ nước Hồ mang giống cây này về có lá thưa thớt tản mát.
Rau mùi tàu - 假芫茜. Còn gọi là rau mùi cần, ngò tây, ngò tàu, mùi tàu. Tên khoa học Eryngium foetidum L. Thuộc họ Hoa tán Apiaceae (Umbelliferae).
Rau muống - 蕹菜. Còn gọi là bìm bìm nước, tra kuôn (Cămpuchia), phak bang (Vienchian), liseron d'eau (Pháp). Tên khoa học Ipomoea reptans (L.) Poir. - Ipomoea aquatica Forsk. Thuộc họ Bìm bìm (Convolvulaceae).
ĐỐI TÁC - LIÊN KẾT
[ Lên đầu trang ]