Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu

YẾN - 燕

Còn gọi là hải yến, huyền điểu, du hà ru điểu, yến hoa, yến thái, quan yến, kim ty yến.

Tên khoa học Collocalia sp.

Thuộc họ Vũ Yến (Apodidae).

YẾN, 燕, hải yến, huyền điểu, du hà ru điểu, yến hoa, yến thái, quan yến, kim ty yến, Collocalia sp., họ Vũ Yến, Apodidae

Chim yến - Collocalia sp.

Tổ yến, tổ chim yến, Nidus Collocaliae

Tổ yến - Nidus Collocaliae

Người ta dùng tổ con chim yến (Nidus Collocaliae).

Chim yến thuộc nhiều loài: Yến đảo Giava Collocalia thunbergi; yến lưng màu tro Collocalia unicolor Gordon; yến đảo Hải Nam Collocalia linchi affinis Bearan, yến sào Collocalia francica vestida đều thuộc họ Vũ yến (Apodidae).

A. MÔ TẢ CON VẬT

Hải yến giống con chim én (cũng gọi là yến) nhưng lông không đẹp, hót không hay, mình nhỏ, cánh dài và nhọn, đuôi ngắn, mỏ cong, lông ở lưng và bụng màu xám, lông đuôi và cánh đen như huyền do đó người ta thường gọi loại yến này là “huyền điểu” (chim đen màu huyền), hay “hải yến” (chim yến ở biển), hoặc “du hà ưu điểu” (chim bay trên sông nước).

Nhiều loại yến khác cũng được khai thác; tất cả đều nhỏ và thân thường chỉ dài 9-10cm, con cái to hơn con đực, nặng chỉ khoảng 7-10g, đầu mỏ hơi cong, ngón chân có màng, cách nhỏ dài, thường bơi lội trên mặt nước hoặc bay lướt trên mặt nước, đớp lấy động vật trong biển hoặc đồ ăn ở tàu thuyền vứt bỏ để làm thức ăn.

Đừng nhầm với chim én mình thon, mỏ rộng, đuôi dài và chẽ thành hình  chữ V tuy thuộc cùng họ, nhưng khác loài và không cho yến, vì không làm tổ bằng chất dãi như chim yến nói trên.

B. PHÂN BỐ, THU HÁI VÀ CHẾ BIẾN

Chim yến cho yến sống rải rác ở những hải đảo vùng đông nam châu Á, Inđônêxia, Philipin, miền nam Trung Quốc (bờ biển Phúc Kiến, Quảng Đông, Hải Nam).

Ở Việt Nam chim yến cho yến sống nhiều ở ven biển từ Quảng Bình đến Hà Tiên. Có ba vùng đặc biệt nổi tiếng: Cù lao Chàm (thuộc tỉnh Quảng Nam, Đà Nẵng). Mũi én và vùng biển thuộc tỉnh Khánh Hòa. Tại những vùng này yến sống rất động ở nhiều đảo.

Nhưng yến thường ở tại những nơi rất hiểm hóc: Khi thì ở những mũi đá lởm chởm dựng đứng, khi thì ở những mỏm núi cheo leo, phía dưới là vịnh nước đen sâu đầy đá ngầm, muốn tìm và đến được những nơi yến ở để lấy tổ yến phải rất kiên nhẫn và rất dũng cảm.

Người ta tìm tổ yến để lấy “yến sào”. Yến sào tức là cái tổ của con chim yến. Ở đây yến sống và sinh nở. Nhưng khác với những loài chim khác đến mùa sinh đẻ thường tha rác, cành cây về làm tổ, còn chim yến, làm tổ bằng chất nước dãi của mình. Người ta cho rằng, ban ngày chim yến đi kiếm ăn, nuốt cá con trong biển, rồi đêm đến nhả nước dãi thành những vành tròn hình xoáy trôn ốc để xây tổ. Ban đầu tốc độ chậm, nhưng vào mùa gió nồm thổi thì tốc độ nhanh hơn.

Vào đầu  tháng 4 yến làm xong tổ, và thời kỳ này cũng là bắt đầu mùa thu hoạch  tổ yến đầu tiên. Nếu thu hoạch kịp thì chim yến mất tổ, còn thời gian làm lại tổ khác. Đặt làm tổ thứ hai này kéo dài 2-3 tháng, kịp vào tháng 6 là mùa yến sinh nở. Yến đẻ trứng, sau 25 ngày trứng nở, chờ sau 75 ngày nữa cho yến non đủ lớn mới nên lấy tổ. Đợt thu hoạch tổ  này kém vụ thứ nhất do mối là thức ăn chính của yến ít đi.

Tùy theo màu sắc, người ta phân biệt tổ yến ra mao yến (hay quan yến) và huyết yến.

Mao yến là tổ của hải yến lúc đầu mới làm để đẻ trứng. Vì khí hậu còn lạnh, trong tổ có nhiều lông yến màu tro đen, hình tổ hơi giống hình bán nguyệt, mặt bám vào hang đá thì tương đối bằng, mặt hướng ra ngoài hơi vồng lên, dài độ 6-10cm, rộng 3-5cm, mặt trong lõm vào, bên ngoài màu tro trắng, lẫn lộn nhiều lông yến, toàn thể do nhiều lớp sợi xơ chồng lên mà thành, mặt bám vào hang đá thì xơ chằng chịt ngổn ngang, sần sùi, mặt lưng vồng lên thì sợi xơ tương đối mịn, sắp xếp thành hình sóng lượng, bên trong tổ thì sần sùi như xơ mướp, chất cứng mà dòn, dề gẫy, chỗ gẫy trong như chất sừng. Một tổ yến chỉ nặng khoảng 10g.

Bạch yến hay quan yến là tổ có lông lần đầu tiên bị lấy mất, con yến làm lại tổ lần thứ hai, màu trắng tinh, nửa trong suốt, mặt lưng lồi lên tương đối bằng, trơn, thỉnh thoảng cũng có lông yến lẫn vào, hình dáng lớn nhỏ cũng giống như mao yến, thứ này phẩm chất rất tốt.

Huyết yến về hình dáng, kích thước cũng như bạch yến, chỉ khác ở chỗ có sợi xơ màu huyết đỏ nâu. Người ta cho rằng do khi con mẹ nhả dãi làm tổ, trong dãi yến mẹ có lẫn máu. Yến huyết rất hiếm và rất quý. Người ta tính trên một đảo yến, một vụ chỉ thu được 2-3kg huyết yến là cùng.

Người ta còn dựa vào màu sắc mà phân biệt ra yến thiên là yến có màu vàng, yến địa là yến có màu xám, hơi nham nhở xù xì, yến bài là loại tổ yến đang làm dở.

Mùa thu hoạch tổ yến thường từ tháng 4, tháng 8 đến tháng 12 là tốt.

Năm 1976 riêng trong đợt I ty thủy sản tỉnh Nghĩa Bình đang phấn đấu khai thác 150kg yến sào, nhiều nhất ở 2 xã Phước Hải và Phước Châu (Quy Nhơn).

Trước đây một kg yến sào trị giá bằng một lạng vàng.

C. THÀNH PHẦN HÓA HỌC

Phân tích tổ yến người ta thấy có gần 50% chất protit, 30,55% gluxit và 6,19% tro.

Trong protit thấy có 2,7% histidin, 2,7% acginin, 2,4% xystin, 1,4% tryptophan và 5,6% tyrosin.

Trong tro có Photpho, sắt, kali và canxi.

Hoạt chất chưa rõ.

D. CÔNG DỤNG VÀ LIỀU DÙNG

Theo tài liệu cổ thì yến sào được thấy ghi đầu tiên trong “Bản thảo cương mục thập di” (1765): Tính chất của yến sào được ghi là vị ngọt, tính bình; vào 2 kinh Phế và Vị. Tác dụng của nó là nuôi phế âm, tiêu đờm, hết ho.

Thường dùng chữa hư yếu, ho lao, sốt từng cơn, hen suyễn, thổ huyết. Thường dùng làm món ăn bổ trong những bữa tiệc lớn. Làm thuốc, yến sào được dùng làm thuốc bổ dưỡng, chữa gầy yếu, ho hen, lao, thổ huyết.

Ngày dùng 6 đến 12g dưới dạng thuốc sắc: Cho yến sào vào túi vải, thêm nước vào đung sôi, để lắng mà uống.

Theo tài liệu cổ thì đối với những người biểu tà, vị hư hàn không dùng được.

Nguồn: Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tác giả: Giáo sư Tiến sĩ khoa học ĐỖ TẤT LỢI



Xin vui lòng ghi rõ nguồn http://www.dotatloi.com khi phát hành lại thông tin.


Tuyên bố miễn trừ trách nhiệm:
Thông tin trên www.dotatloi.com chỉ phục vụ nghiên cứu học tập và mở rộng kiến thức. Không sử dụng làm căn cứ để tiến hành chẩn trị trên lâm sàng. Thông tin trên www.dotatloi.com có thể được trích dẫn, thu thập từ các ấn phẩm, các trang tin điện tử liên quan trong nước và ngoài nước. Nếu phát sinh vấn đề bản quyền, kính đề nghị phản hồi cho chúng tôi.

Viết bình luận

Để thuận tiện cho việc đăng tải, xin vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.
Chúng tôi mong muốn nhận được những bình luận theo hướng mở rộng hoặc bổ sung thông tin liên quan đến bài viết.
Chúng tôi sẽ khóa những bình luận có ngôn từ mang tính kích động hoặc bất nhã.

focus Lộc nhung, mê nhung
15/06/2025 08:23 CH

- 鹿茸, 麋茸. Còn gọi là nhưng hươu, nhung nai. Tên khoa học Cornu Cervi parvum. Lộc nhung hay mê nhung (Cornu Cervi parvum) là sừng non của con hươu (lộc) Cervus nippon Temminck, hoặc con nai (mê) Cervus unicolr Cuv. đực được chế biến mà thành. Cả hai con đều ...

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu
Tên vị thuốc Mô tả
Thanh long - 量天尺. Còn gọi là cây mắt rồng, oeil de dragon (Pháp). Tên khoa học Hylocereus undulatus (Haw.) Britt & Rose. Thuộc họ xương rồng (Cactaceae).
Thanh ngâm - 苦玄參 (苦玄参). Còn gọi là mật đất, cây mật cá, sản đắng, thằm ngăm đất. Tên khoa học Curanga amara Juss. Thuộc họ Hoa mõm chó (Scrophulariaeae).
Thành ngạnh - 黄牛木. Còn gọi là cây đỏ ngọn (Vĩnh Phú), lành ngạnh, ngành ngạnh, may tiên, ti u (Lai Châu). Tên khoa học Cratoxylon prunifolium Dyer (Cratoxylon pruniflorum Kurtz). Thuộc họ Ban (Hypericaceae).
Thanh thất - 嶺南臭椿 (岭南臭椿). Còn gọi là bụt, bông xướt, càn thôn. Tên khoa học Ailanthus malabarica DC. Thuộc họ Thanh thất (Simarubaceae).
Thảo đậu khấu - 草豆蔻. Còn gọi là thảo khấu nhân, ngẫu tử. Tên khoa học Alpnia katsumadai Hayt. Thuộc họ Gừng (Zingiberaceae). Thảo đậu khấu (Semen Alpiniae katsumadai) là hạt phơi hay sấy khô lấy từ quả gần chín của cây thảo khấu (Alpinia katsumadai).
Thảo quả - 草果. Còn gọi là đò ho, tò ho, mac hâu, may mac hâu (Thái). Tên khoa học Amomum tsao-ko Crev. et Lem. (Amomum aromaticum Roxb. Amomun medium Lour.). Thuộc họ Gừng (Zingiberaceae).
Thảo quyết minh - 草决明. Còn gọi là quyết minh, hạt muồng, đậu ma, giả lục đậu, giả hoa sinh, lạc giời. Tên khoa học Cassia tora L. Thuộc họ Vang (Caesalpiniaceae). Ta dùng thảo quyết minh (Semen Cassiae) là hạt phơi hay sấy khô của cây thảo quyết minh.
Thầu dầu - 蓖麻. Còn gọi là đu đủ tía, dầu ve, tỳ ma. Tên khoa học Ricinus communis L. Thuộc họ Thầu dầu (Euphorbiaceae). Cây thầu dầu cung cấp các vị thuốc sau dây: (1) Dầu thầu dầu - tỳ ma du (Oleum Ricini) là dầu ép từ hạt cây thầu dầu. (2) Hạt thầu dầu - tỳ ma tử là hạt phơi khô của cây thầu dầu. (3) Lá thầu dầu (Folium Ricini) là lá tươi của cây thầu dầu.
Thị - 黃柿. Còn gọi là thị muộn. Tên khoa học Diospyros decandra Lour. Thuộc họ Thị (Ebenaceae).
Thị đế - 柿蒂. Còn gọi là thị đinh, tai hồng, hồng. Tên khoa học Diospyros kaki L. f. Thuộc họ Thị (Ebenaceae). Thị đế (Calyx kaki) là tai hồng phơi hay sấy khô. Cây hồng có tên Trung Quốc là thị: Đế là tai, là đế.
Thìa là - 蒔蘿 (莳萝). Còn gọi là rau thìa là, phăk si (Lào-Vientian), aneth (Pháp). Tên khoa học Anethum graveolens L. (Peucedanum graveolens Benth. et Hook.). Thuộc họ Hoa tán Apiaceae (Umbelliferae). Thìa là cho quả dùng làm thuốc.
Thiên đầu thống - 破布木. Còn gọi là cây lá trắng, cây ong bầu, trường xuyên hoa. Tên khoa học Cordia obliqua Willd. (Corlia dichotoma Forst). Thuộc họ Vòi voi (Borraginaceae).
Thiên đông môn - 天門冬. Còn có tên là thiên môn, thiên đông, dây tóc tiên. Tên khoa học Asparagus cochinchinensis (Lour.) Merr. (Asparagus lucidus Lindl.). Thuộc họ Hành tỏi (Liliaceae). Ta dùng rễ khô (Radix Asparagi) của cây thiên môn đông.
Thiên lý - 夜来香. Còn gọi là cây hoa lý, hoa thiên lý, dạ lài hương. Tên khoa học Telosma cordata (Burm.f.) Merr. (Asclepias cordata Burm.f., Pergularia minor Andr. Pergularia odoratissima Wight, Asclepias odoratissima Roxb.). Thuộc họ Thiên lý (Asclepiadaceae).
Thiên niên kiện - 千年健. Còn gọi là sơn thục. Tên khoa học Homalomena aromatica (Roxb). Schott (Calla aromatica Roxb). Thuộc họ Ráy (Araceae). Thiên niên kiện (Rhizoma Homalomenae) là thân rễ phơi hay sấy khô của cây thiên niên kiện. Tên thiên niên kiện vì người ta cho rằng uống vị thuốc này thì nghìn năm khỏe mạnh (thiên là nghìn, niên là năm, kiện là khỏe mạnh).
Thiến thảo - 茜草. Còn gọi là tây thảo, mao sáng (mèo), thiên căn, thiến căn. Tên khoa học Rubia cordifolia L. Thuộc họ Cà phê (Rubiacae).
Thiên tiên tử - 天仙子. Còn gọi là sơn yên tử, đại sơn yên tử, jusquiame (Pháp), mont aux poules. Tên khoa học Hyoscyamus niger L. Thuộc họ Cà (Solanaceae).
Thiên trúc hoàng - 天竹黄. Còn có tên là trúc hoàng phấn, phấn nứa, trúc cao. Tên khoa học Concretio silicea Bambusa hay Tabashir. Thiên trúc hoàng là cặn đọng ở đốt một số cây nứa mọc ở nước ta, tên khoa học của nứa là Bambusa sp. thuộc họ Lúa Poaceae (Gramineae). Những cây nứa này bị một loại bệnh làm cho chất nước trong cây ngưng đọng lại. Tên những cây nứa ở nước ta chưa được xác định chắc chắn, vì ít khi thấy có hoa hoặc quả. Có tác giả xác định là Arundinaria racemosa Munro hoặc Bambusa arundinacea Retz (A. Petelot 1954). Theo các tác giả Trung Quốc (Dược tài học 1960) các loài nứa có thiên trúc hoàng lại thuốc các loài Phyllotachys reticulaa C. Koch hoặc Phyllotachys nigra Munro var henonis Makino thuộc cùng họ Lúa Poaceae (Gramineae).
ĐỐI TÁC - LIÊN KẾT
[ Lên đầu trang ]