Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu

XUYÊN SƠN GIÁP - 穿山甲

Còn gọi là vảy tê tê, vảy con trút.

Tên khoa học Manis pentadactyla L.

Thuộc họ Tê tê (Manidae).

XUYÊN SƠN GIÁP, 穿山甲, vảy tê tê, vảy con trút, Manis pentadactyla L., họ Tê tê, Manidae

Xuyên sơn giáp - Manis pentadactyla

Xuyên sơn giáp (Squama Manidis) là vảy phơi khô của con tê tê hay con trút (Manis pentadactyla L.).

Vì con vật hay đục núi và mình có vảy cứng như áo giáp do đó có tên xuyên sơn, xuyên qua núi.

A. MÔ TẢ CON VẬT

Tuy bề ngoài con tê tê giống con thằn lằn nhưng thực ra là một loài động vật có vú, đẻ con và nuôi con bằng sữa.

Tê tê có thân dài, chân ngắn và thấp, đầu nhỏ nhọn, đuôi rất dài. Nếu cắt ngang đuôi, mặt cắt sẽ có hình bán nguyệt. Phần trên lưng, từ mũi đến đuôi con tê tê có phủ một lớp vảy hình vỏ trai. Lớp vảy này thực ra chỉ là những cụm lông nhỏ dính bết vào nhau tạo thành. Vảy tê tê xếp cái nọ đè lên cái kia giống như ngói lợp, thành từng dải dài, theo một trật tự rất phức tạp. Má, ngực, bụng tê tê không có vảy, chỉ lớt phớt một ít lông cứng. Da bụng tê tê trắng mềm. Lưỡi là một bộ phận kỳ lạ nhất của tê tê, hình con giun dài bằng nửa chiều dài của toàn thân con vật. Để bình thường lưỡi dài từ mõm cho đến hai chân sau.

Loài tê tê đuôi dài leo cây rất giỏi, sống trên cây và ngủ trong các hốc cây rỗng. Khi tê tê ngủ hoặc muốn tự vệ, nó cuộn mình lại ở phần dưới của mút đuôi có một màu thịt cài chặt vào một vảy ở lưng làm thành một cuộn tròn rất chắc và rất khó mở. Tê tê cận thị nhưng tai và mũi tinh. Nếu tê tê tóm được địch thủ nó dùng các chân ghì chặt đối thủ một cái rồi thả ra. Cái ghì này đủ bóp chết một con chó lớn. Tê tê có sức khỏe lạ thường, nó có thể kéo một người lớn và khỏe.

Tê tê tính rất hiền lành, chậm chạp. Nó ăn kiến và mối là những loài côn trùng phá hoại gỗ và cây cối trong rừng. Tê tê dùng vuốt phá vỡ các tổ kiến, tổ mối để bắt mối. Nhờ một thứ bột dính ở dưới lưỡi, tê tê có thể loại những đất cát ra khỏi thức ăn của nó một cách tài tình. Nếu đem mùn cưa trộn với thức ăn rồi cho tê tê ăn, thì ta thấy thức ăn biến mất chỉ còn lại mùn cưa.

B. PHÂN BỐ, THU BẮT VÀ CHẾ BIẾN

Tê tê là một loại động vật sống hoang dại ở các miền núi nước ta, đâu cũng có. Nó còn sống tại miền Nam Trung Quốc (Phúc kiến, Quảng Đông, Quảng Tây, Vân  Nam, Đài Loan), Miến Điện, Ấn Độ, XriLanca...

Có thể săn bắt quanh năm. Thường tê tê không đào lấy tổ để ở, mà đến những tổ của các con vật khác sau khi đã đào rộng thêm ra chút ít.

Thường khi thấy tê tê, ta chỉ cần ném đất cát vào, hoặc huýt, chó đuổi. Con vật tức khắc cuộn tròn lại, rất dễ bắt.

Bắt về giết chết, cắt sạch xương thịt, phơi khô là được cả bộ da. Nhưng muốn lấy vảy không thôi thì hoặc cho vào nước sôi, vảy tự khắc rụng ra, rửa sạch, phơi khô; hoặc ngâm da trong nước vôi trong, da thịt sẽ nát ra, vẩy tơi ra, rửa sạch phơi khô; có khi bắt được cho ngay vào nồi luộc chín, vảy bong ra, rửa sạch, phơi khô.

Khi dùng làm thuốc, ít khi dùng sống; hoặc tẩm mỡ, tẩm dấm hay tẩm dầu mà rán. Có khi sao với cát cho vàng, rồi lấy ra rây bỏ cát; vảy tê tê còn đang nóng, cho ngay vào bình chứa dấm (cứ 100kg vảy tê tê, dùng 40kg dấm) trộn đều lấy ra phơi khô mà dùng. Có khi người ta còn đốt ra than mà dùng.

C. THÀNH PHẦN HÓA HỌC

Chưa thấy có tài liệu nghiên cứu.

D. CÔNG DỤNG VÀ LIỀU DÙNG

Xuyên sơn giáp là một vị thuốc dùng trong phạm vi nhân dân.

Theo tài liệu cổ: Xuyên sơn giáp vị mặn, tính hơi hàn, có độc; vào 2 kinh Can và Vị. Có tác dụng tán huyết thông lạc, tan ung nhọt, làm thuốc chữa đậu, trẩn, tắc tia sữa. Tuy nhiên trong sách còn ghi ung thư đã vỡ rồi mà nguyên khí hư thì không dùng được.

Còn dùng trong bệnh đau nhức các khớp xương, đầu xương. Ngày dùng 6-12g dưới dạng uống.

Đơn thuốc có xuyên sơn giáp trong nhân dân:

   1. Tắc tia sữa: Nướng xuyên sơn giáp tán nhỏ, ngày uống 2 lần, mỗi lần 4g, có thể cùng uống  với một ít rượu.

   2. Tràng nhạc vỡ loét: Đốt xuyên sơn giáp, nghiền nhỏ đắp vào.

   3. Thuốc thông sữa: Xuyên sơn giáp (sao vàng), đương quy, cát cánh, thược dược, mộc thông, phục linh, xuyên khung, thiên hoa phấn. Các vị bằng nhau. Ngày cần dùng 50g hỗn hợp này, thêm 500ml nước, sắc còn 200ml chia 3 lần uống trong ngày.

   4. Chữa mụn nhọt: Xuyên sơn giáp 10g, bạch chỉ 5g, tạo giáp thích (gai bồ kết) 8g, hoàng kỳ 6g, đương quy 6g, nước 600ml, sắc còn 200ml, chia 3 lần uống trong ngày.

Nguồn: Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tác giả: Giáo sư Tiến sĩ khoa học ĐỖ TẤT LỢI



Xin vui lòng ghi rõ nguồn http://www.dotatloi.com khi phát hành lại thông tin.


Tuyên bố miễn trừ trách nhiệm:
Thông tin trên www.dotatloi.com chỉ phục vụ nghiên cứu học tập và mở rộng kiến thức. Không sử dụng làm căn cứ để tiến hành chẩn trị trên lâm sàng. Thông tin trên www.dotatloi.com có thể được trích dẫn, thu thập từ các ấn phẩm, các trang tin điện tử liên quan trong nước và ngoài nước. Nếu phát sinh vấn đề bản quyền, kính đề nghị phản hồi cho chúng tôi.

Viết bình luận

Để thuận tiện cho việc đăng tải, xin vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.
Chúng tôi mong muốn nhận được những bình luận theo hướng mở rộng hoặc bổ sung thông tin liên quan đến bài viết.
Chúng tôi sẽ khóa những bình luận có ngôn từ mang tính kích động hoặc bất nhã.

focus Xuyên sơn giáp
26/06/2025 08:21 CH

- 穿山甲. Còn gọi là vảy tê tê, vảy con trút. Tên khoa học Manis pentadactyla L. Thuộc họ Tê tê (Manidae). Xuyên sơn giáp (Squama Manidis) là vảy phơi khô của con tê tê hay con trút (Manis pentadactyla L.). Vì con vật hay đục núi và mình có vảy cứng như áo giá...

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu
Tên vị thuốc Mô tả
Mẫu đơn bì - 牡丹皮. Còn gọi là đơn bì, phấn đơn bì, hoa vương, mộc thược dược, thiên hương quốc sắc, phú quý hoa. Tên khoa học Paeonia suffruticosa Andr. (Paeonia arborea Donn, Paeonia moutan Sims.). Thuộc họ Mao lương (Ranunculaceae). Mẫu đơn bì (Cortex Paeoniae suffruticosae hay Cortex Moutan) là vỏ rễ phơi hay sấy khô của cây mẫu đơn. Đơn là đỏ, bì là vỏ, da. Vị thuốc là vỏ màu đỏ.
Mẫu lệ - 牡蠣. Còn gọi là vỏ hầu, vỏ hà, hầu cồn, hầu cửa sông, hà sông. Tên khoa học Ostrea sp. Thuộc họ Mẫu lệ (Ostridae). Mẫu lệ (Concha Ostreae), là vỏ phơi khô của nhiều loại hầu hay hà như hầu cửa sông (còn gọi là hầu cồn, hà sông), Ostrea rivularis Gould hầu ve, hầu đá, hầu lăng v.v... Mẫu là đực, lệ là giống sò to; vì người xưa cho rằng giống sò này chỉ có đực.
Me - 酸角. Còn gọi là cây me, ampil, khua me (Campuchia), mak kham (Lào). Tên khoa học Tamarindus indica L. Thuộc họ Vang (Caesalpiniaceae).
Mía - 甘蔗. Còn gọi là cam giá. Tên khoa học Saccharum offcinarum L. Thuộc họ Lúa Poaceae (Gramineae). Saccharum do chữ Ấn Độ, sakhara có nghĩa là đường; cam giá vì "cam" là ngọt, "giá" là gậy, cây trông giống cái gậy, có vị ngọt.
Mía dò - 樟柳頭 (樟柳头). Còn gọi là tậu chó (Lạng Sơn), đọt đắng, đọt hoàng, cát lồi, củ chóc. Tên khoa học Costus speciosus Smith, (Costus loureiri Horan., Amomum hirsutum Lamk., Amomum arboreum Lour.). Thuộc họ Gừng (Zingiberaceae).
Miết giáp - 鱉甲 (鳖甲). Còn gọi là mai con ba ba, thủy ngư xác, giáp ngư, miết xác. Tên khoa học Carapax Amydae.
Mít - 波羅蜜 (波罗蜜). Còn gọi là mac mi, may mi (Lào), khnor (Cămpuchia). Tên khoa học Artocarpus integrifolia L.f. Thuộc họ Dâu tằm (Moraceae).
- 杏. Còn có tên là ô mai, hạnh, khổ hạnh nhân, abricotier (Pháp), má pheng (Thái), mai. Tên khoa học Prunus armenniaca L. (Armenniaca vulgarris Lamk). Thuộc họ Hoa hồng (Rosaceae). Cây mơ cho ta những vị thuốc sau đây: (1) Khổ hạnh nhân (Semen Armeniaca amarae) là hạt khô của cây mơ; (2) Nước cất hạt mơ Aqua Armeniniacae chế từ hạt mơ; (3) Ô mai (Fructus Armeniacae praeparatus) là quả mơ chế và phơi hay sấy khô; (4) Dầu hạnh nhân (Oleum Armeniacae) dầu ép từ hạt mơ.
Mơ tam thể - 絨毛雞矢藤 (绒毛鸡矢藤). Còn có tên khác là dây mơ lông, dây mơ tròn, thối địt, ngưu bì đống (tên Trung Quốc). Tên khoa học Paederia tomentosa L. Thuộc họ Cà phê (Rubiaceae). Ta dùng lá cây mơ tam thể.
Mộc hoa trắng - 止瀉木 (止泻木). Còn gọi là cây sừng trâu, cây mức lá to, thừng mực to lá, mức hoa trắng, mộc vài (Thổ), míc lông. Tên khoa học Holarrhena antidysenteria Wall (Echites antidysenterica Roxb, Wrightia antidysenterica Grah.). Thuộc họ Trúc đào (Apocynaceae). Ta dùng hạt và vỏ cây mộc hoa trắng.
Mộc hương - 木香. Trên thị trường có nhiều loại mộc hương, nhưng sau đây là 2 vị chính: (1) Quảng mộc hương còn gọi là vân mộc hương (Radix Saussureae lappae) là rễ phơi hay sấy khô của cây vân mộc hương (Saussurealappa lappa Clarke) thuộc họ Cúc (Compositae). (2) Thổ mộc hương còn gọi là hoàng hoa thái (Radix Helenii) là rễ phơi hay sấy khô của cây thổ mộc hương (Inula helenium L.) cũng thuộc họ Cúc (Composiae). Ngoài ra còn một số cây khác cũng cho vị mộc hương cùng thuộc họ Cúc như vị xuyên mộc hương mà có tác giả xác định là Inula racemosa Hook. f., nhưng có tác giả lại xác định là Jurinea aff. souliel Franch.
Móc mèo núi - 大托葉雲實 (大托叶云实). Còn gọi là vuốt hùm, bonduc, cni- quier, pois - quenique, yeux de chat. Tên khoa học Caealpinia bon du-cella Flem. Thuộc họ Vang (Caesalpinceae).
Mộc nhĩ - 木耳. Còn gọi là nấm tai mèo. Tên khoa học Auricularia polytricha Sacc. Thuộc họ Mộc nhĩ (Auriculariaceae).
Mộc qua - 木瓜. Tên khoa học Chaenomeles lagenaria (Lois.) Koidz (Cydonia lagenaria Lois.). Thuộc họ Hoa hồng (Rosaceae). Mộc qua (Fructus Chaenomelis lagenariae) là quả chín phơi hay sấy khô của cây mộc qua (Chaenomeles lagenaria).
Mộc tặc - 木贼. Còn gọi là tiết cốt thảo, mộc tặc thảo, bút đầu thái, cỏ tháp bút. Tên khoa học Equisetum arvense L. Thuộc họ Mộc tặc (Equisetaceae). Mộc tặc (Herba Equiseti arvensis) là toàn cây mộc tặc phơi khô. Vì cây có đốt lại ráp, dùng để đánh gỗ cho nhẵn, do đó có tên là mộc tặc ("mộc" là gỗ, "tặc" là giặc, giặc đối với gỗ).
Mộc thông - 木通. Mộc thông là một vị thuốc ta vừa nhập của Trung Quốc, vừa khai thác trong nước. Nhưng ngay mộc thông của Trung Quốc cũng không thống nhất. Người ta đã thống kế, phát hiện thấy hơn 10 loại cây khác nhau, thuộc các họ thực vật khác nhau, chủ yếu thuộc 2 họ: Mộc hương (Aristolochiaceae), Mao lương (Rauunculaceae) cho vị thuốc mang tên mộc thông. Tại Việt Nam, cũng có mấy cây khai thác với tên mộc thông. Khi sử dụng cần chú ý theo dõi. Ở đây chúng tôi chỉ giới thiệu một số cây thường được dùng nhất. Vị mộc thông, nguyên gọi là thông thảo, vì có lỗ nhỏ ở hai đầu nên gọi tên như vậy ("mộc" là gỗ, "thông" là thông qua).
Móng lưng rồng - 九死還魂草 (九死还魂草). Còn gọi là chân vịt, quyển bá, vạn niên tùng, kiến thủy hoàn dương, hồi sinh thảo, trường sinh thảo, cải tử hoàn hồn thảo, hoàn dương thảo, nhả mung ngựa (Thái), thạch bá chi. Tên khoa học Selaginella tamariscina (Beauv.) Spring. Thuộc họ Quyển bá (Selaginellaceae).
Mù mắt - 馬醉草 (马醉草). Tên khoa học Isotoma longiflora Prest., Lobelia longiflora Willd., Laurentia longiflora (L.) Peterm. Thuộc họ Lobêli (Lobeliaceae).
ĐỐI TÁC - LIÊN KẾT
[ Lên đầu trang ]