Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu

XUYÊN KHUNG - 川芎

Còn gọi là khung cùng, tang ky.

Tên khoa học Ligusticum wallichii Franch.

Thuộc họ Hoa Tán Apiaceae (Umblliferae).

XUYÊN KHUNG, 川芎, khung cùng, tang ky, Ligusticum wallichii Franch, họ Hoa Tán Apiaceae, Umblliferae

Xuyên khung - Ligusticum wallichii

Xuyên khung (Rhizoma Ligustici wallichii ) là thân rễ phơi hay sấy khô của cây xuyên khung.

Trong con người, cái đầu được coi là bộ phận cao nhất, như vòm trời. Vị thuốc này chuyên trị các chứng về đầu, não, do đó có tên (khung: cao; cùng: chỗ cuối cùng).

Tên xuyên khung vì vị thuốc nguồn gốc ở tỉnh Tứ Xuyên. Hiện đã di thực được vào nước ta.

A. MÔ TẢ CÂY

Xuyên khung là một cây thuộc thảo, sống lâu năm, thân mọc thẳng trong ruột rỗng, mặt ngoài có đường gân dọc nổi rõ.

Lá mọc so le, kép 3 lần; cuống lá dài 9-17cm, phía dưới ôm lấy thân; 3 đến 5 đôi lá chét; cuống lá chét dài; phiến lá chét rách sâu; khi vò có mùi thơm.

Hoa họp thành tán kép; cuống tán phụ ngắn chừng 1cm; hoa nhỏ, màu trắng. Song bế quả, hình trứng.

B. PHÂN BỐ, THU HÁI VÀ CHẾ BIẾN

Xuyên khung chủ yếu được trồng tại tỉnh Tứ Xuyên, còn mọc ở Vân Nam, Quí Châu (Trung Quốc).
Mới di thực vào nước ta chừng mười năm nay. Tuy nhiên tại Sapa (Lào Cai) có đồng bào nói cây đó có sẵn tại tỉnh này từ trước. Nhưng dù sao cũng chỉ mới được phát triển trong vòng mấy năm gần đây; hiện nay được trồng trên quy mô lớn. Cây ưa những nơi cao, có khí hậu mát như Sapa, việc trồng thí nghiệm tại đồng bằng chưa thành công.

Xuyên khung ưa đất tốt, nhiều mùn, có pha cát. Trồng bằng mắt cắt ở thân ra, mỗi bên mắt để chừng 1cm. Có thể trồng bằng mẩu thân rễ; nhưng trồng bằng mắt thì củ có hình khối tròn và đẹp.

Mùa trồng tốt nhất là cuối xuân; nếu trồng muộn quá, cây chưa kịp tốt và khỏe trước mùa đông tới.

Cây trồng sau hai năm mớibắt đầu thu hoạch. Củ đào về, cắt bỏ cọng và rễ nhỏ, rũ sạch đất cát, phơi khô chỗ thoáng gió; nếu sấy, phải sấy ở nhiệt độ thấp cho khỏi bay mất nhiều tinh dầu.

Năng suất một hecta là 2 tấn củ khô.

C. THÀNH PHẦN HÓA HỌC

Theo Kha Vinh Đường và Tăng Quảng Phương, 1957 (Hóa học học báo 23 (4): 246-249) thì trong xuyên khung Ligusticum wallichii có 4 chất chủ yếu sau đây:

   Một ancaloit dễ bay hơi, công thức C27H37N3.

   Một axit C10H10O4 với tỷ lệ chừng 0,02 gần giống axit ferulic trong a nguỳ (Ferula asa-foetida L. họ Umbelliferae).

   Một chất có tính chất phenola với công thức C24H46O4 hoặc C23H44O4, độ chảy 108o.

   Một chất trung tính có công thức C26H28O4, độ chảy 98o.

Trong tinh dầu xuyên khung, người ta đã xác định được một chất lacton rất giống chất cnidium lacton đã tìm thấy trong một loại khung khác Cnidium offcinale Makino (xem ở dưới).

IMG

D. TÁC DỤNG DƯỢC LÝ

Nhiều tác giả đã nghiên cứu tác dụng dược lý của xuyên khung. Sau đây là một số kết quả chính:

1. Tác dụng đối với trung khu thần kinh:

   Theo Thụ Thượng Sư Thọ (1933), tinh dầu xuyên khung với liều nhỏ có tác dụng ức chế đối với hoạt động của đại não, nhưng đối với trung khu hô hấp, trung khu vận mạch và trung khu phản xạ ở tuỷ sống thì lại có tác dụng hưng phấn, kết quả làm cho con vật một phần yên tĩnh, tự động vận động giảm xuống; nhưng mặt khác làm cho huyết áp tăng cao, hô hấp cũng tăng, cơ năng phản xạ cũng tăng; nhưng nếu dùng liều quá cao thì đại não bị tê liệt mạnh, các trung khu và phản xạ tủy sống có thể bị ức chế do đó huyết áp hạ xuống, nhiệt độ cơ thể giảm xuống, hô hấp khó khăn, vận động có thể tê liệt và chết.

2. Tác dụng đối với tuần hoàn:

   Theo Thụ Thượng Sư Thọ (1933), tinh dầu của xuyên khung có tác dụng tê liệt đối với tim làm cho các mạch máu ngoại vi dãn ra, liều lớn có thể làm cho huyết áp hạ xuống (đã nói ở trên), phải chăng có liên quan với tác dụng này.

   Hai tác giả khác Kinh Lợi Bân và Thạch Nguyên Cao đã dùng cồn 70o và nước chiết hoạt chất trong xuyên khung mua của hiệu thuốc Đồng Nhân Đường (Bắc Kinh) chế thành dung dịch 10%, rồi tiêm vào tĩnh mạch chó và thỏ gây mê, thì thấy huyết áp hạ xuống rõ rệt; hai tác giả này cho rằng tác dụng này có liên quan tới ảnh hưởng của trung khu thần kinh.

   Lý Quảng Túy và Kim Âm Xương (1956) đã nghiên cứu 27 loại thuốc đông y đối với huyết áp (thí nghiệm trên chó và mèo đã gây mê) thì xuyên khung là một vị có tác dụng hạ huyết áp rõ rệt và kéo dài dù tiêm mạch máu hay tiêm bắp thịt cũng có tác dụng như nhau (Trung Quốc sinh lý khoa học hội, 1956).

3. Tác dụng đối với cơ trơn:

   Kinh Lợi Bân và Thạch Nguyên Cao (1934) đã dùng dung dịch nước của xuyên khung thí nghiệm trên tử cung cô lập của thỏ đã có thai, thấy với liều nhỏ dung dịch nước xuyên khung có tác dụng kích thích co bóp của tử cung thỏ có thai, cuối cùng đi đến hiện tượng co quắp, ngược lại nếu dùng liều lớn, tử cung tê liệt và đi đến ngừng co bóp.

   Các tác giả còn thí nghiệm tiêm dung dịch xuyên khung liên tục một thời gian cho thỏ và chuột trắng có chửa thì thấy cái thai chết trong bụng mà không đẩy ra được. Các tác giả cho rằng vì xuyên khung gây co bóp tử cung, ảnh hưởng tới dinh dưỡng của thai làm cho thai chết. Các tác giả còn cho rằng vì xuyên khung làm dãn mạch máu cho nên không làm cho cầm máu được. Cổ nhân cho rằng xuyên khung có tác dụng điều trị những phụ nữ sau khi sinh nở mà bị băng huyết là do xuyên khung có khả năng làm co tử cung, làm cho những mạch máu ở vách tử cung áp chặt vào vách tử cung mà gây cầm máu.

   Kinh Lợi Bân và Thạch Nguyên Cao còn nghiên cứu tác dụng của dung dịch nước xuyên khung trên mẩu ruột cô lập (ruột thỏ và chuột bạch) thì thấy nếu dùng liều cao, sự co bóp bị hoàn toàn ngừng hẳn không khôi phục lại được; nếu dùng liều nhỏ thì làm cho mẩu ruột co bóp dần dần mà không có khả năng làm cho ngừng hẳn.

4. Tác dụng kháng sinh:

   Theo báo cáo của Lưu Quốc Thanh và Trương Duy Tây, 1950 (Trung Hoa y học tạp chí, 68: 307-312) thì xuyên khung có tác dụng kháng sinh đối với nhiều loại vi trùng như vi trùng thương hàn, phó thương hàn, vi trùng sinh mủ, thổ tả, vi trùng lỵ Sonner v.v...

E. CÔNG DỤNG VÀ LIỀU DÙNG

Theo tài liệu cổ: Xuyên khung có vị cay, tính ôn, vào 3 kinh can, đởm, và tâm bào. Có tác dụng đuổi phong, giảm đau, lý khí hoạt huyết; dùng chữa kinh nguyệt không đều, đầu nhức mắt hoa, ngực bụng đầy trướng, bán thân bất toại, chân tay co quắp, ung thư. Những người âm hư hoả vượng không dùng được.

Xuyên khung là một vị thuốc hay được dùng chữa những triệu chứng nhức đầu, hoa mắt, huyết áp cao, phụ nữ sau khi sinh nở bị dong huyết mãi không ngừng.

Còn dùng trong những trường hợp đau dạ dày hay đau đớn khác và kinh nguyệt không đều.

Ngày dùng 3-6g dưới dạng thuốc sắc, thuốc bột hay ngâm rượu.

Đơn thuốc có xuyên khung:

   1. Thuốc chữa nhức đầu, chóng mặt: Xuyên khung 3g, tế tân 2g, hương phụ 3g; nước 300ml; sắc còn 100ml. Chia 3 lần uống trong ngày.

   2. Đơn thuốc chữa thiên đầu thống, ngạt mũi, mắt mờ: Xuyên khung 12g, kinh giới 12g, bạc hà 24g, phòng phong 4g, tế tân 3g, khương hoạt 6g, bạch chỉ 6g. Các vị trên tán nhỏ; ngày uống hai lần, mỗi lần uống 6g bột; dùng nước chè mà chiêu thuốc.

   3. Độc vị xuyên khung tán chữa thiên đầu thống, phụ nữ sau khi đẻ nhức đầu: Xuyên khung tán nhỏ. Dùng nước chè chiêu thuốc. Ngày uống hai lần; mỗi lần uống 4 đến 6g.

Chú thích:

1. Vị xuyên khung được nhiều tác giả xác định với tên khoa học khác nhau. Ví dụ Lưu Mê Đạt Phu đã xác định với tên Cnidium officinale Makino (Hoà hán dược dụng thực vật 132, 1940), Lý Thừa Cố (Sinh dược học 216, 1952) đã xác định là Conioselinum unvittatum Turcz. Tuy nhiên năm 1960, Lý Thừa Cố đã xác định lại là Ligusticum wallichii (Trung Quốc dược dụng thực vật đồ giám).

   Chúng tôi theo tài liệu là tập Trung dược chí quyển I (Bắc Kinh 1961), vì theo sự mô tả và hình vẽ giống cây xuyên khung ta đang trồng hơn cả. Ngay trong tập này các tác giả cũng giới thiệu thêm một cây nữa mà một số tỉnh Trung Quốc cũng dùng với tên xuyên khung hay cao bản, hoặc tây khung. Tên khoa học của cây này là Ligusticum senense Oliv.

   Tại Sapa, nhân dân thường trồng cả hai loài: loài xuyên khung Ligusticum wallichii có lá nhỏ, còn có tên là tang ky.

   Loài Ligustcum sinense Oliv. còn có tên là mùa chua có lá lớn hơn lá xuyên khung.

2. Về thành phần hóa học, các tác giả Lưu Mê Đạt Phu và Mộc Thông Hùng Tây Bộ (1940) có giới thiệu về thành phần của xuyên khung Cnidium officinale như sau: Trong thân rễ xuyên khung Cnidium officinale có chừng 1-2% tinh dầu.

   Thành phần chủ yếu trong tinh dầu xuyên khung này là cnidium axit C12H20O3, este cnidium C12H19O2-O-C10H17; tinh thể cnidium lacton C12H18O2, axit sedanonic C12H18O3, một chất rượu C10H17OH và một chất phenol.

   Xem vậy, ta thấy cần kiểm tra lại tên thực vật và thành phần hoá học của những vị xuyên khung ta dùng vì nguồn gốc nhập khác nhau, chất lượng có thể khác nhau.

   Trong cây cao bản Ligusticum sinense chỉ mới biết có tinh dầu. Thành phần của tinh dầu và hoạt chất khác chưa thấy có tài liệu nghiên cứu.

Nguồn: Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tác giả: Giáo sư Tiến sĩ khoa học ĐỖ TẤT LỢI



Xin vui lòng ghi rõ nguồn http://www.dotatloi.com khi phát hành lại thông tin.


Tuyên bố miễn trừ trách nhiệm:
Thông tin trên www.dotatloi.com chỉ phục vụ nghiên cứu học tập và mở rộng kiến thức. Không sử dụng làm căn cứ để tiến hành chẩn trị trên lâm sàng. Thông tin trên www.dotatloi.com có thể được trích dẫn, thu thập từ các ấn phẩm, các trang tin điện tử liên quan trong nước và ngoài nước. Nếu phát sinh vấn đề bản quyền, kính đề nghị phản hồi cho chúng tôi.

Viết bình luận

Để thuận tiện cho việc đăng tải, xin vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.
Chúng tôi mong muốn nhận được những bình luận theo hướng mở rộng hoặc bổ sung thông tin liên quan đến bài viết.
Chúng tôi sẽ khóa những bình luận có ngôn từ mang tính kích động hoặc bất nhã.

focus Bạch cập
21/04/2025 07:40 CH

- 白芨. Tên khoa học Bletilla striata (Thunb.) Reichb. Thuộc họ Lan (Orchidaceae). Bạch cập (Rhizoma Bletillae) là thân rễ phơi hay sấy khô của cây bạch cập. Vị thuốc sắc trắng (bạch là trắng) lại mọc liên tiếp do đó có tên bạch cập.

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu
Tên vị thuốc Mô tả
Củ cốt khí - 虎杖根. Còn gọi là hoạt huyết đan, tử kim long, ban trượng căn, hổ trượng căn, điền thất (miền nam). Tên khoa học Reynaotria japonica Houtt. Polygonum cuspidatum Sieb et Zucc. Polygonum reynoutria Makino. Thuộc họ Rau răm (Polygonaceae). Củ cốt khí (Radix Polygoni cuspidati) là rễ phơi hay sấy khô của cây củ cốt khí. Cần chú ý là chữ cốt khí còn dùng chỉ hạt và lá của nhiều cây khác thuộc họ Đậu. Đặc biệt, qua cuộc điều tra nghiên cứu, chúng tôi chỉ thấy có cây này mang tên cốt khí lại thuộc họ Rau răm.
Củ gió - 金果欖 (金果榄). Còn gọi là kim quả lãm, sơn từ cô, kim ngưu đởm, kim khổ lãm, địa đởm. Tên khoa học Tinospora capillipes Gagnep. Thuộc họ Tiết dê (Menispermaceae).
Củ khỉ - 野黄皮. Còn gọi là vương tùng, hồng bì núi, xì hắc, cút khí. Tên khoa học Murraya tetramera Huang-Murraya glabra Guill.Clausenia dentata(willd) Roem. Thuộc họ cam (Rutaceae).
Củ nâu - 薯莨. Còn gọi là khoai leng, vũ dư lương. Tên khoa học Dioscorea cirrhosa Lour. Thuộc họ Củ nâu (Dioscoreaceae).
Cúc áo - 天文草. Còn gọi là cây hoa cúc áo, ngổ áo, nụ áo lớn, phát khát (Vientian), cressdon de Para. Tên khoa học Spilanthes acmella L. Murr., (Verbesina acmella L., Eclipta prostrata Lour non L.). Thuộc họ Cúc Asteraceae (Compositae).
Cúc hoa - 菊花. Còn gọi là cam cúc hoa, bạch cúc hoa, cúc hoa trắng, cúc điểm vàng, hoàng cúc. Tên khoa học Chrysanthemum sinense Sabine, [Chrysanthemum morifolium Ramat Chrysanthemum indicum Lour. (non L.)]. Thuộc họ Cúc Asteraceae (Compositae). Cúc hoa (flos Chrysanthemi) là hoa cúc phơi hay sấy khô. Người ta còn dùng cả hoa của cây cúc hoa vàng hay dã cúc, kim cúc, cúc riềng vàng Chrysanthemum indicum L. Chrysanthemum procumbens Lour.) cùng họ. Cúc là cùng tận: Tháng 9 hoa cúc nở sau cùng.
Cúc liên chi dại Còn gọi là cây chứng ếch, Camomille sauvage. Tên khoa học Parthenium hysterophorus L. (Argyrochoeta bipinnatyfida Cav, Villanova bipinnatifida Orteg.). Thuộc họ Cúc Asteraceae (Compositae).
Cúc mốc - 芙蓉菊. Còn gọi là ngải phù dung, nguyệt bạch, ngọc phù dung. Tên khoa học Crossostephium chinense (L.) Mak., Crossostephium artemisioides Less. Thuộc họ Cúc Asteraceae (Compositae).
Cúc tần - 欒樨 (栾樨). Còn gọi là từ bi, cây lức, nan luật (Viêntian), pros anlok, pras anlok (Cămpuchia). Tên khoa học Pluchea indica (L.) Less. Thuộc họ Cúc Asteraceae (Compositae).
Cúc trừ sâu - 除蟲菊 (除虫菊). Còn gọi là pyrèthre - chrysanthème vermicide et insecticide. Tên khoa học Chrysanthemum cinerariaefolium Vis. (Pyrethrum cinerariaefolium Trev, Pyrethrum cinerariaefolium DC.). Thuộc họ Cúc Asteraceae (Compositae). Ta dùng cụm hoa phơi hay sấy khô của cây cúc trừ sâu (Flos Pyrethri cinerariaefoli.). Ngoài cây cúc trừ sâu Pyrethrum cinerariaefolium Trev. người ta còn dùng hoa của nhiều loại cúc khác như Pyrethrum roseum M.B. (vùng Capcazơ), Pyrethrum carneum M.B.
Cửu lý hương - 臭草. Còn gọi là rue tetide, văn hương. Tên khoa học Ruta graveolens L. Thuộc họ Cam quít (Rutaceae).
Đại bi - 艾納香 (艾纳香). Còn gọi là băng phiến, mai hoa băng phiến, mai phiến, long não hương, mai hoa não, ngải nạp hương, ngải phiến, từ bi. Tên khoa học Blumea balsamifera (L.) DC. (Conyza balsamifera L. Baccharis salvia Lour.). Thuộc họ Cúc Asteraceae (Compositae). Băng phiến, (Bocneola hay Borneo - camphor) có thể do 3 nguồn gốc: (1) Chế từ gỗ cây long não hương (Dryobalanops aromatica Gaertn.) thuộc họ Dầu hoặc họ Song dực quả (Dipterocarpaceae). Cây này chưa thấy ở nước ta; (2) Chế từ cây đại bi hay từ bi hoặc từ bi xanh Blumea balsamifera DC., thuộc họ Cúc (Compositae). Cây này có ở nước ta và sẽ giới thiệu kỹ sau đây; (3) Chế bằng phương pháp tổng hợp hóa học, không giới thiệu ở đây.
Đài hái - 油瓜. Còn gọi là du qua, dây mỡ lợn, dây hái, then hái, mướp rừng, dây sén, mak khing (Lào), Kigarasu-uri (Nhật). Tên khoa học Hodgsonia macrocarpa (Blume) Cogn. (Trichosanthes macrocarpa Blume). Thuộc họ Bầu bí (Cucurbitaceae).
Đại hoàng - 大黃. Còn gọi là xuyên đại hoàng, tướng quân. Tên khoa học Rheum sp. Thuộc họ Rau răm (Polygonaceae). Đại hoàng (Rhizoma Rhei) là thân rễ phơi hay sấy khô của nhiều loại đại hoàng như chưởng diệp đại hoàng Rheum palmatum L., đường cổ đặc đại hoàng Rheum tanguticum Maxim. ex Regel (Rheum palmatum L. var. tanguticum Maxim.) hoặc dược dụng đại hoàng Rheum officinale Baill. hoặc một vài loài Rheum khác, tất cả đều thuộc họ Rau răm (Polygonaceaea). Vì vị thuốc màu rất vàng cho nên gọi là đại hoàng; vì có khả năng tống cái cũ, sinh cái mới rất nhanh chóng như dẹp loạn cho nên còn gọi là tướng quân.
Đại phong tử - 大風子. Còn gọi là chùm bao lớn, krabao phlêthom (Cămpuchia). Tên khoa học Hudnocarpus anthelmintica Pierre. Thuộc họ Mùng quân (Flacourtiaceae). Cây đại phong tử cho vị thuốc đại phong tử (Semen Hydnocarpi) là hạt phơi hay sấy khô của cây đại phong tử. Tên Hydnocarpus do hai chữ hydnon có nghĩa là một loài cây, carpus là quả nghĩa là quả giống một loài cây đã biết, anthelmintica do chữ Hy Lạp anti là chống lại, helminthe là trùng trong ruột ý muốn nói tác dụng của vị này đối với ký sinh trong ruột. Phong là tên Đông y của bệnh hủi và giống hủi, đại phong tử là loại quả to có tác dụng chữa bệnh hủi và giống hủi - tên này do Lý Thời Trân ghi chép trong cuốn Bản thảo cương mục (1595).
Đại phúc bì Là vỏ ngoài giữa phơi hay sấy khô của quả cau (xem cây cau). Thường các mảnh vỏ này được đập làm 2 mà phơi cho chóng khô.
Dâm bụt - 朱槿. Còn gọi là bụp (miền Nam), xuyên can bì. Tên khoa học Hibiscus rosa-sinensis L.. Thuộc họ Bông (Malvaceae).
Đạm trúc diệp - 淡竹葉 (淡竹叶). Còn gọi là trúc diệp, toái cốt tử, trúc diệp mạch đông, mễ thân thảo, sơn kê mễ. Tên khoa học Lophatherum gracile Brongn. (Acroelytrum japonicum Steud.). Thuộc họ Lúa (Gramineae). Đạm trúc diệp (Herba Lophatheri) là toàn cây đạm trúc diệp phơi hay sấy khô.
ĐỐI TÁC - LIÊN KẾT
[ Lên đầu trang ]