Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu

XƯƠNG BỒ - 菖蒲

Còn gọi là thạch xương bồ, thuỷ xương bồ.

Tên khoa học Acorus gramineus Soland: Acorus calamus L.

Thuộc họ Ráy (Araceae).

XƯƠNG BỒ, 菖蒲, thạch xương bồ, thuỷ xương bồ, Acorus gramineus Soland: Acorus calamus L., họ Ráy, Araceae

Thạch xương bồ - Acorus gramineus

IMG

Thủy xương bồ - Rhizoma Acoricalami

Thạch xương bồ (Rhizoma Acoricalami) là thân rễ phơi khô của cây thạch xương bồ Acorus gramineus Soland.

Thuỷ xương bồ (Rhizoma Acoricalami) là thân rễ phơi khô của cây thuỷ xương bồ Acorus calamus L.

Xương là phồn thịnh, bồ là một thứ cỏ; xương bồ là một thứ cỏ bồ mọc chi chít.

A. MÔ TẢ CÂY

Thạch xương bồ là một loại cỏ sống lâu năm, có thân rễ mọc ngang, đường kính to bằng ngón tay, có nhiều đốt, trên có những sẹo lá. Lá mọc đứmg hình dải, dài 30-50cm, rộng 2-6mm, chỉ có gân giữa. Hoa mọc thành bông mo ở đầu một cán dẹt dài 10-30cm, cán này được phủ bởi một lá bắc; lá bắc này dài 7-20cm, rộng từ 2-4mm vượt cao hơn cụm hoa rất nhiều, làm cho cụm hoa trông như lệch sang một bên, dài từ 5-12cm, đường kính 2-4mm. Quả mọng màu đỏ nhạt, một ngăn, có thành gần như khô. Quanh hạt có một chất gôm nhầy.

Thuỷ xương bồ Acorus calamus cũng giống như thạch xương bồ nhưng to và cao hơn. Lá dài từ 50-150cm, rộng từ 6-30mm. Lá bắc của cán hoa so với loài trước cũng dài hơn, thường dài tới 45cm. Cụm hoa mọc thành bông mẫm, so với cụm hoa trên cũng to và ngắn hơn, thường dài 4-8cm, đường kính 6-12mm. Mùa hoa tháng 5-7, mùa quả tháng 6-8.

B. PHÂN BỐ, THU HÁI VÀ CHẾ BIẾN

Thạch xương bồ và thuỷ xương bồ mọc hoang tại những vùng núi miền Bắc và Trung nước ta, thường ở những nơi khe đá, khe suối, chỗ mát.

Có thể thu hái quanh năm, nhưng tốt nhất vào mùa thu ở các tháng 8-9. Hái về cắt bỏ lá và rễ con, rửa sạch đất cát và phơi khô.

C. THÀNH PHẦN HÓA HỌC

Trong thạch xương bồ có chừng 0,5-0,8% tinh dầu, trong tinh dầu có chừng 86% asaron C12H16O3. Ngoài ra còn có một chất phenol và axit béo.

Tinh dầu có tỷ trọng1,058 ở 15o, chỉ số xà phòng 1,3 chỉ số este 5,79 độ sôi 140-160o ở 6mm thủy ngân.

Trong thuỷ xương bồ có 1,5-3,5% tinh dầu, trong đó thành phần chủ yếu cũng là asoron C12H16O3 (4 propenyl 1-3-5 tremetoxybenzol), rồi đến asarylandehyt C10H12O4. Ngoài ra còn một glucozit đắng gọi là acorin và chất tanin.

IMG

D. TÁC DỤNG DƯỢC LÝ

Uống vào, xương bồ xúc tiến sự phân tiết các dịch tiêu hóa và hạn chế sự lên men không bình thường của dạ dày và ruột.

Xương bồ còn làm bớt sự căng thẳng của cơ trơn trong ruột. Ngoài ra nó hơi có tác dụng kích thích đối với da, do đó có thể tăng cường máu chạy mạnh hơn tại một nơi nào trên cơ thể.

Theo sự ngiên cứu của Trịnh Vũ Phi (1982, Trung hoa y học tạp chí 38 (4): 315-318) trong ống nghiệm thì xương bồ có tác dụng sát khuẩn đối với một số khuẩn ngoài da.

Năm 1966, Nguyễn Ngọc Doãn, Nguyễn Địch, Bùi Thế Kỳ và Vũ Anh Vinh (Tạp chí y học Việt Nam, I: 8-14) đã nghiên cứu tác dụng của của xương bồ trên thực nghiệm và trên lâm sàng đã đi tới kết luận:

   1. Xương bồ có tác dụng dự phòng và điều trị loạn nhịp tim gây ra trên động vật (thỏ và chó) bằng clorua bary, strophantin, hoặc thắt động mạch vành trái. Các súc vật đều được theo dõi bằng điện tâm đồ, huyết áp và nhịp thở. Khi xương bồ ổn định nhịp tim thì huyết áp và nhịp thở động vật không bị rối loạn, sóng R của điện tâm đồ đều cao lên.

   2. Trong lâm sàng, xương bồ có tác dụng điều hòa nhịp tim trong các trường hợp: Nhịp xoang nhanh, nhịp đa hiệp xoang nút, ngoại tâm thu thành chuỗi. Nhưng có trường hợp không có kết quả đối với trung tâm nhĩ hoặc ngoại tâm thu, nhịp hai nhịp ba đã có khá lâu.

   3. Xương bồ có thể dùng kéo dài hàng tháng mà không gây độc, đáp ứng rất tốt trong điều trị ở bệnh viện cũng như ngoại trú. Liều lượng hàng ngày 10-15ml cao rượu thân rễ khô (1ml cao rượu: 1g xương bồ).

E. CÔNG DỤNG VÀ LIỀU DÙNG

Xương bồ là một vị thuốc được dùng cả trong đông y và tây y.

Tính vị xương bồ theo đông y: Vị cay, tính ôn, vào 2 kinh Tâm và Can. Tác dụng tẩy uế, khai khiếu, tuyên khí, mục đờm, dùng chữa thần kinh suy nhược, kém tiêu hóa, thông cửu khiếu, sáng tai mắt, ôn tràng vị, trị phong hàn tê thấp. Trẻ con sốt nóng nấu nước tắm khỏi. Phàm âm huyết không đủ, tinh hoạt, ra nhiều mồ hôi cấm dùng. Kỵ sắt, ghét ma hoàng, địa đởm, thịt dê, đường và mật.

Trên thực tế, xương bồ được dùng làm thuốc bổ, bổ dạ dày, giúp sự tiêu hóa. Mới đây được dùng làm thuốc điều hòa nhịp tim trong nhịp xoang nhanh, ngoại tâm thu thành chuỗi, nhịp do huyệt xoang nút.

Ngày dùng 4 đến 10g dùng hàng ngày, kéo dài 1-2 tháng.

Dùng ngoài làm thuốc trừ sâu bọ, chống chấy rận. Tại Malaixia người ta tán thân rễ xương bồ rắc vào gốc cây có mối. Còn dùng làm bột thuốc đánh răng.

Đơn thuốc có xương bồ:

   1. Viên roter (neutracid) (chữa đau dạ dày): Mỗi viên có xương bồ 0,025g, đại hoàng hay buốc đen (bột) 0,025g, natri bicacbonat 0,2g, magiê cacbonat 0,4g, nitrat bitmut bazơ 0,35g. Ngày uống 3 lần, mỗi lần 1-2 viên vào sau bữa ăn. Thời gian điều trị liên tục trong 1-3 tháng. Sau khi nghỉ một tháng lại tiếp tục lần nữa.

   Viên bicalinum của Liên Xô cũ cũng có thành phần như trên, nhưng trong mỗi viên còn thêm 0,005g rutin vaf 0,005g kellin. Cách dùng cũng như viên roter. Còn dùng chữa viêm tá tràng.

   2. Xương bồ chọn thứ dài hơn 9 đốt, phơi khô trong râm, tán nhỏ, ngày uống 2 lần, sáng tối mỗi lần 3g chữa tai ù, hay quên, hay mệt mỏi.

   3. Xương bồ phơi khô trong râm, tán nhỏ rắc lên các mụn nhọt lâu liền, hậu bối.

Trong sách cổ, coi xương bồ là thuốc tiên: Người ta lấy xương bồ về, ngâm nước vo gạo một đêm, đem cạo hết vỏ, thái mỏng phơi khô, tán nhỏ, luyện với  mật, viên bằng hạt ngô. Sấy hay phơi khô. Ngày uống hai lần, sáng sớm và tối trước khi đi ngủ, mỗi lần 30 viên, dùng rượu chiêu thuốc. Sau 1 tháng, tiêu cơm, 2 tháng trừ đờm, hàng năm thì xương tủy đầy, đẹp người, đen tóc, răng  rụng lại mọc (Đạo tạng kinh).

Nguồn: Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tác giả: Giáo sư Tiến sĩ khoa học ĐỖ TẤT LỢI



Xin vui lòng ghi rõ nguồn http://www.dotatloi.com khi phát hành lại thông tin.


Tuyên bố miễn trừ trách nhiệm:
Thông tin trên www.dotatloi.com chỉ phục vụ nghiên cứu học tập và mở rộng kiến thức. Không sử dụng làm căn cứ để tiến hành chẩn trị trên lâm sàng. Thông tin trên www.dotatloi.com có thể được trích dẫn, thu thập từ các ấn phẩm, các trang tin điện tử liên quan trong nước và ngoài nước. Nếu phát sinh vấn đề bản quyền, kính đề nghị phản hồi cho chúng tôi.

Viết bình luận

Để thuận tiện cho việc đăng tải, xin vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.
Chúng tôi mong muốn nhận được những bình luận theo hướng mở rộng hoặc bổ sung thông tin liên quan đến bài viết.
Chúng tôi sẽ khóa những bình luận có ngôn từ mang tính kích động hoặc bất nhã.

focus Cà dại hoa tím
23/04/2025 10:45 CH

- 刺天茄. Còn gọi là cà hoang, cà gai, cà hoang gai hoa tím. Tên khoa học Solanum indicum L. Thuộc họ Cà (Solanaceae).

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu
Tên vị thuốc Mô tả
Mắc nưa - 柿油樹. Còn gọi là mặc nưa, mac leua (Cămpuchia). Tên khoa học Diospyros mollis Griff. Thuộc họ Thị (Ebenaceae).
Mạch ba góc - 蕎麥 (荞麦). Còn gọi là tam giác mạch, lúa mạch đen, kiều mạch, sèo (Lào Cai, Yên Bái). Tên khoa học Fagopyrum esculentum Moench. (Fagopyrum sagittatum Cilib). Thuộc họ Rau răm (Polygonaceae). Ta có thể dùng toàn cây nhưng chủ yếu là lá và hoa của mạch ba góc để làm nguyên liệu chiết rutin.
Mạch môn đông - 麥門冬. Còn có tên là mạch đông, cây lan tiên. Tên khoa học Ophiopogon japonicus Wall. Thuộc họ Hành tỏi (Liliaceae). Người ta dùng rễ củ phơi hay sấy khô (Radix Ophiopogoni) của cây mạch môn đông. Vì lá giống lá lúa mạch, về mùa đông lá vẫn xanh tươi nên gọi là mạch đông.
Mạch nha - 麥芽. Tên khoa học Maltum. Mạch nha chính thức là hạt lúa mạch Hordeum sativum Jess. var. vulgare Hack hoặc một loài Hordeum khác thuộc họ Lúa Poaceae (Gramineae) cho mọc mầm, rồi sấy khô ở nhiệt độ dưới 60 độ. Ở Việt Nam ta vì chưa có lúa mạch, vẫn dùng hạt thóc tẻ (thóc chiêm hay thóc mùa đều được) Oryza sativa L. var. utilissima cùng họ để ngâm cho nẩy mầm rồi phơi khô, gọi là cốc nha. Muốn có thóc nẩy mầm, chỉ cần đãi thóc sạch đất cát, ngâm nước cho ẩm, sau đó ủ kín, thỉnh thoảng tưới nước để giữ ẩm đều, sau vài ngày hạt thóc nảy mầm, khi nào một số mầm bắt đầu xanh thì lấy ra phơi nắng cho khô, để nguyên hoặc tán nhỏ, sãy hết trấu mà dùng.
Mai mực - 海螵鞘. Còn gọi là hải phiêu tiêu, mai cá mực, ô tặc cốt. Tên khoa học Sepia esculenta Hoyle, Sepiaandreana Steen-Strup. Thuộc họ Cá mực (Sepiidae). Ô tặc cốt - Os Sepiae là mai rửa sạch, phơi khô của con mực nang hay mực ván (Seppiaesculenta Hoyle) hoặc của con mực ống, mực cơm (Sepiidae) nhưng chủ yếu là mực nang hay mực ván vì mực cơm hay mực ống có mai nhỏ. Tên ô tặc vì theo cách sách cổ, con cá mực thích ăn thịt chim, thường giả chết nổi trên mặt nước, chim tưởng là xác chết, bay sà xuống để mổ, bị nó lôi xuống nước ăn thịt, ăn thịt nhiều quạ do đó thành tên vì ô là quạ, tặc là giặc, cốt là xương; ý nói xương của giặc đối với quạ. Tên hải phiêu tiêu vì vị thuốc giống tổ con bọ ngựa mà lại gặp ở ngoài bể (phiêu tiêu là tổ bọ ngựa).
Mâm xôi - 粗葉懸鉤子 (粗叶悬钩子). Còn gọi là đùm đũm. Tên khoa học Rubus alceaefolius Poir. (Rubus fimbriifeus Focke). Thuộc họ Hoa hồng (Rosaceae).
Màn kinh tử - 蔓荊子. Còn gọi là kinh tử, vạn kim tử, quan âm, thuốc kinh, thuốc ôn, đẹn ba lá. Tên khoa học Vitex trifoolia L. Thuộc họ Cỏ roi ngựa (Verbenaceae). Màn kinh tử (Fructus Viticis) là quả chín phơi hay sấy khô của cây quan âm hay cây màn kinh, còn gọi là cây thuốc ôn. Màn là mọc lan ra, kinh là gai. Thứ cây này mọc lan ra mặt đất, nên gọi tên như vậy.
Mần tưới - 澤蘭 (泽兰). Còn gọi là hương thảo, lan thảo, Ayapana du Tonkin. Tên khoa học Eupatorium staechadosmun Hance. Thuộc họ Cúc Asteraceae (Compositae).
Măng cụt - 山竺、山竹子. Còn gọi là sơn trúc tử, mangoustanier. Tên khoa học Garcinia mangostana L. (Mangostana garcinia Gaertn.). Thuộc họ Bứa Clusiaceae (Guttferae). Tuy mang tên sơn trúc tử tại Trung Quốc, nhưng Trung Quốc không có cây này, vẫn phải nhập từ nước ngoài vào.
Màng tang - 澄茄子. Còn gọi là tất trừng già. Tên khoa học Litsea cubeba (Lour.) Pers. Thuộc họ Long não (Lauraceae).
Mang tiêu - 芒硝. Còn gọi là phác tiêu, huyền minh phấn. Tên khoa học Mirabilita, Natrium Sulfuricum, Sal Glauberis. Mang tiêu (Natrium Sulfuricum, Sal Glauberis) là muối natri sunfat thiên nhiên tinh chế mà thành. Huyền minh phấn (Natrium Sulfuricum exciccatum) còn gọi là nguyên minh phấn, hay phong hóa tiêu là mang tiêu khử hết nước.
Mật động vật (đởm) Đông y và Tây y đều dùng mật động vật làm thuốc, nhưng Tây y chỉ hay dùng mật lợn, mật bò. Còn Đông y dùng mật của nhiều loài như mật gấu, mật dê, mật lợn, mật bò, mật trăn, mật rắn, mật gà, mật cá chép, .v.v.
Mật gấu - 熊膽 (熊胆). Còn gọi là hùng đởm. Tên khoa học Fel Ursi. Thuộc họ Gấu (Ursidae). Mật gấu (Fel Ursi) là túi mật phơi hay sấy khô của nhiều loài gấu Ursus sp. Ở Việt Nam, thường là loài gấu ngựa Selenarctos thibetanus G. Cuvier. có khoang như chữ V trắng ở ngực. Đôi khi có loài gấu chó hay gấu đen, gấu xám (hiếm hơn) Ursus arctos lisiotus Gray.
Mật lợn, mật bò - 豬膽, 牛膽 (猪胆, 牛胆). Mật lợn, mật bò có thể dùng tươi, nhưng vì khó uống và không để được lâu cho nên thường cô đặc thành cao đặc hay cao khô hoặc đem tinh chế thành cao mật bò, cao mật lợn tinh chế.
Mật mông hoa - 密蒙花. Còn gọi là mông hoa, lão mật mông hoa, lão mông hoa, hoa mật mông. Tên khoa học Buddleia officinalis Maxim., (Buddleja madagascariensis Hance). Thuộc họ Mã tiền (Loganiaceae). Mật mông hoa (Flos Buddlejae), là nụ hoa hoặc cụm hoa của cây mật mông hoa phơi hay sấy khô.
Mặt quỷ - 羊角藤. Còn gọi là đơn mặt quỷ, dây đất, nhầu đó, cây ganh, khua mak mahpa (Lào). Tên khoa học Morinda umbellata L. (Morinda scandens Roxb., Stigmanthus cymosus Lour). Thuộc họ Cà phê (Rubiaceae).
Máu chó - 小葉紅光樹 (小叶红光树). Còn gọi là muscadier à suif. Tên khoa học Knema corticosa Lour. (Knema bicolor Raf, Myristica corticosa Hook. f. et Thoms). Thuộc họ Nhục đậu khấu (Myristicaceae). Tên là máu chó vì khi chặt cây, chất nhựa chảy ra có màu đỏ giống như máu.
Mẫu đơn bì - 牡丹皮. Còn gọi là đơn bì, phấn đơn bì, hoa vương, mộc thược dược, thiên hương quốc sắc, phú quý hoa. Tên khoa học Paeonia suffruticosa Andr. (Paeonia arborea Donn, Paeonia moutan Sims.). Thuộc họ Mao lương (Ranunculaceae). Mẫu đơn bì (Cortex Paeoniae suffruticosae hay Cortex Moutan) là vỏ rễ phơi hay sấy khô của cây mẫu đơn. Đơn là đỏ, bì là vỏ, da. Vị thuốc là vỏ màu đỏ.
ĐỐI TÁC - LIÊN KẾT
[ Lên đầu trang ]