Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu

XOAN NHỪ - 南酸棗 (南酸枣)

Còn gọi là xoan trà, nhừ, xoan rừng, lát xoan, xuyên cóc, nam toan táo (Trung Quốc).

Tên khoa học Choerospondias axillaris (Roxb.) Burtt et Hill (Spondias axillaris Roxb.).

Thuộc họ Đào lộn hột (Anaardiaceae).

XOAN NHỪ, 南酸棗, 南酸枣, xoan trà, nhừ, xoan rừng, lát xoan, xuyên cóc, nam toan táo, Choerospondias axillaris (Roxb.) Burtt et Hill, Spondias axillaris Roxb., họ Đào lộn hột, Anaardiaceae

Xoan nhừ - Choerospondias axillaris

A. MÔ TẢ CÂY

Xoan nhừ là một cây gỗ, to, cao 8-20m, vỏ thân cây màu xám nâu.

Lá mọc so le, kép lông chim lẻ, dài 20-30cm, cuống lá dài 5-10cm, lá chét 7-15cm, mọc đối, dài 4-10cm, rộng 2-4,5cm, mép nguyên.

Hoa tạp tính khác gốc. Hoa đực và hoa giả lưỡng tính màu tím hồng nhạt, mọc thành chùy gồm nhiều tán tụ, chùy hoa dài 4-12cm, hoa cái mọc đơn độc ở nách lá phía trên.

Quả hạch, hình giống quả nhót dài 2-3cm, vỏ bóng, màu vàng, đỉnh có 5 lỗ nhỏ, vị chua, khi chín có vị ngọt.

B. PHÂN BỐ, THU HÁI VÀ CHẾ BIẾN

Xoan trà mọc hoang dại ở nhiều tỉnh miền Bắc nước ta như Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Thái, Lào Cai, Hà Giag, Tuyên Quang. Còn thấy mọc ở Trung Quốc (Hồ Bắc, Hồ Nam, Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam, Phúc Kiến) Nhật Bản, Ấn Độ.

Tại nước ta cũng như ở nhiều nước khác, người ta khai thác xoan nhừ chủ yếu lấy gỗ làm đồ dùng.
Ngoài ra người ta khai thác vỏ và quả cây làm thuốc chữa bỏng. Dùng tươi hay khô đều được.

Tại Trung Quốc người ta còn khai thác vỏ cây và lá để chế gôm nhựa quả dùng để ăn và lên men rượu, vỏ hạt làm nguyên liệu chế than hoạt tính, sợi vỏ thân dùng để bện thừng, chạc.

C. THÀNH PHẦN HÓA HỌC

Trong vỏ thân lá có khoảng 13-14% gôm nhựa. Ngoài ra còn có tanin.

Năm 1975, Nguyễn Liêm và cộng sự đã phân tích vỏ thân xoan nhừ thấy có 37,1% tanin pyrogalic, 5,4% flavon, 0,6% quinon, và 14% chất polyme thiên nhiên.

D. TÁC DỤNG DƯỢC LÝ

Trên cơ sở kinh nghiệm dân gian, dùng làm thuốc chữa bỏng, lần đầu tiên Tô Thủ (Y học thực hành 1967, 8,146, 9-10) đã dùng cao nước vỏ xoan nhừ làm thuốc chữa 18 ca bỏng nhẹ và nặng. Kết quả thấy chữa bỏng bằng cao xoan nhừ đơn giản, rẻ tiền, kết quả tốt: không gây bội nhiễm, biến chứng, dị chứng), rút ngắn ngày điều trị so với điều trị bằng tây y, bệnh nhân dễ chịu, không đau, vết bỏng không có mùi hôi thối. Nhiều trường hợp có thể chữa ngoại trú, tại nhà, rất phù hợp với điều kiện của dân.

Từ năm 1973, khoa bỏng viện quân y 103, khoa chấn thương bệnh viện Thái Bình, các khoa sinh lý bệnh trường đại học quân y và nhiều cơ sở quân y khác đã nghiên cứu trên thực nghiệm và lâm sàng đã đi đến những kết luận sau đây (Y học thực hành 1976, 7-8, 35-37):

   1. Nước sắc đặc vỏ cây xoan nhừ khi bôi vào vết thương bỏng mới tạo ra một màng che phủ. Qua thực tế lâm sàng, so với các màng tạo bằng collođion, fibrin, màng che phủ do nước sắc đặc vỏ cây xoan nhừ hơn hẳn về tính chất mềm mại, chắc bền, không bị nứt rạn, không gây căng kéo bề mặt vết thương bỏng và về tính chất bám chặt và phủ kín vết thương bỏng.

   2. Nước sắc đặc vỏ xoan nhừ còn có tính chất làm khô vết thương bỏng, do đó màng che phủ giữ được tính chất là một màng khô nhưng mềm mại, vững chắc, đồng thời bám chặt vào vết thương bỏng.

   3. Dùng vỏ xoan nhừ chữa các loại bỏng nông tiết kiệm được băng gạc, đỡ số lần thay băng, do đó bớt đau đớn cho bệnh nhân, lại giảm được nhiễm trùng tại chỗ do cách ly được vết bỏng với môi trường bên ngoài. Vết bỏng nông tự biểu mô hoá dưới màng. ở vết thương độ bỏng 2, bỏng trung bì nông, từ 8-12 ngày màng bắt đầu bong. Đối với bỏng trung bì sâu, thời gian bong của màng từ ngày 11-20 kể từ sau khi bị bỏng. Lớp da của bỏng, độ 2 được phục hồi mịn hơn so với các vết bỏng nông cùng vị trí không được bôi nước sắc đặc vỏ xoan nhừ.

Tuy nhiên cần khắc phục một số nhược điểm của thuốc như xót, khi bôi, màu đen của thuốc làm khó chẩn đoán và khó theo dõi diễn biến của hoại tử bỏng khi dùng thuốc ở bỏng sâu.

E. CÔNG DỤNG VÀ LIỀU DÙNG

Trừ gỗ dùng để làm nhà, đóng đồ, quả dùng để ăn và chế men rượu, trong nhân dân Việt Nam và Trung Quốc từ rất lâu đời đã biết dùng vỏ, lá và quả xoan nhừ sắc nước làm thuốc bôi bỏng với tác dụng tiêu viêm, giải độc, giảm đau và cầm máu.

Sau những công trình nghiên cứu trong phòng thí nghiệm và trên lâm sàng, vỏ xoan nhừ được dùng chính thức tại nhiều nơi để chữa bỏng. Trước khi dùng thuốc cần rửa sạch vết bỏng, cắt bỏ các vòm nốt phổng và các lớp thượng bì đã bong lóc ra, lau khô sạch bằng gạc vô trùng khô.

Có thể dưới dạng nước sắc đặc của vỏ cây, hay bột vỏ cây (khi dùng pha thêm nước với tỷ lệ 1 phân bột, 1 phần nước) có thể dùng nước sắc đặc phun thành bụi nhỏ (sử dụng khí nén nitơ để tạo áp suất.

Sau đây là một hình thức sử dụng đơn giản: lấy vỏ cây rửa sạch cho vào nồi, đổ nước ngang mức vỏ, đun cho cạn, gạn lấy phần còn lại. Lại đổ thêm nước ngang mức cũ, đun lần thứ hai đến cạn một nửa. Lấy hai phần nước đó lọc qua gạc rồi cô thành cao sánh.

Cứ 10kg vỏ làm được 400ml cao, màu đen, không mùi, vị chát, dễ bảo quản.

Nguồn: Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tác giả: Giáo sư Tiến sĩ khoa học ĐỖ TẤT LỢI



Xin vui lòng ghi rõ nguồn http://www.dotatloi.com khi phát hành lại thông tin.


Tuyên bố miễn trừ trách nhiệm:
Thông tin trên www.dotatloi.com chỉ phục vụ nghiên cứu học tập và mở rộng kiến thức. Không sử dụng làm căn cứ để tiến hành chẩn trị trên lâm sàng. Thông tin trên www.dotatloi.com có thể được trích dẫn, thu thập từ các ấn phẩm, các trang tin điện tử liên quan trong nước và ngoài nước. Nếu phát sinh vấn đề bản quyền, kính đề nghị phản hồi cho chúng tôi.

Viết bình luận

Để thuận tiện cho việc đăng tải, xin vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.
Chúng tôi mong muốn nhận được những bình luận theo hướng mở rộng hoặc bổ sung thông tin liên quan đến bài viết.
Chúng tôi sẽ khóa những bình luận có ngôn từ mang tính kích động hoặc bất nhã.

focus Con sam
01/07/2025 11:33 CH

- 鱟 (鲎). Còn gọi là Kabutegami (Nhật). Tên khoa học Tachypleus tridentatus. Thuộc ngành Chân khớp (Arthropoda), lớp Giáp cổ (Nerostoma).

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu
Tên vị thuốc Mô tả
Gai tầm xoọng - 酒餅簕 (酒饼簕). Còn gọi là cúc keo, quít gai, quít hôi, độc lực, cây gai xanh, mền tên, tửu bính lặc. Tên khoa học Atalantia buxifolia (Poir.) Oliv. (Atalantia bilocularis Wall., Severinia monophylla Tanaka.). Thuộc họ Cam quít (Rutaceae).
Gắm - 買麻藤 (买麻藤). Còn gọi là dây sót, dây mấu, dây gấm lót, vương tôn. Tên khoa học Gnetum montanum Mgf., (Gnetum scandens Roxb, Gnetum edule Kurz. Gnetum latifolium Parl.). Thuộc họ Dây gắm (Gnetaceae).
Găng Còn gọi là găng trắng, lovieng (Cămpuchia). Tên khoa học Randia tomentosa (Blum. ex. DC.) Hookf. (Gardenia tomentosa Wall). Thuộc họ Cà phê (Rubiaceae).
Găng tu hú - 山石榴. Còn gọi là găng trâu, mây nghiêng pa (Lào). Tên khoa học Randia dumetorum Benth. Thuộc họ Cà phê (Rubiaceae).
Giổi Còn gọi là hạt giổi, cây giổi. Tên khoa học Talauma gioi Chev. Thuộc họ Ngọc lan (Magnoliaceae).
Giun đất - 蚯蚓. Còn gọi là khâu dẫn, khúc đàn, câu vẫn, ca nữ, phụ dẫn, địa long. Tên khoa học Pheretima asiatica Michaelen. Thuộc họ Cự dẫn (Megascolecidae). Đại long hay khâu dẫn (Lumbricus) là toàn con giun đất để nguyên hoặc mổ bỏ đất ở ruột rồi phơi hay sấy khô.
Gối hạc - 火筒樹 (火筒树). Còn gọi là kim lê, bí dại, phỉ tử, mũn, mạy chia (Thổ). Tên khoa học Leea rubra Blume. Thuộc họ Gối hạc (Leeaceae).
Gừng - 薑 (姜). Còn gọi là khương, sinh khương, can khương. Tên khoa học Zingiber offcinale Rosc. Thuộc họ Gừng (Zingiberaceae). Khương (Rhizoma Zingiberis) là thân rễ của cây gừng tươi hoặc khô. Tùy theo tươi hay khô, vị thuốc mang tên khác nhau: Sinh khương là củ (thân rễ) tươi; Can khương là thân rễ phơi khô.
Gừng dại - 野薑 (野姜). Còn gọi là Zơrơng (Bình Định). Tên khoa học Zingiber cassumunar Roxb. Thuộc họ Gừng (Zingiberaceae).
Gừng gió - 紅球薑 (红球姜). Còn gọi là riềng gió, ngải xanh, ngải mặt trời, riềng dại, khuhet phtu, prateal vong atit (Cămpuchia), gingembre feu (Pháp), phong khương (Trung Quốc). Tên khoa học Zingiber zermbet Sm. Thuộc họ gừng (Zingiberaceae).
Hạ khô thảo - 夏枯草. Tên khoa học Brunella (Prunella) vulgaris L.. Thuộc họ Hoa môi (Lamiaceae). Ta dùng cụm hoa và quả phơi hay sấy khô (Flos Brunellae cum Frunctu) của cây hạ khô thảo. Theo người xưa, cây này sau ngày hạ chí (mùa Hạ) thì khô héo nên gọi là hạ khô thảo (trên thực tế ở nước ta, mùa Hạ cây vẫn tươi tốt).
Hà thủ ô - 何首烏 (何首乌). Hà thủ ô được coi là một vị thuốc bổ đông y có khả năng làm người già hóa trẻ, tóc bạc hóa đen. Nhưng ở nước ta có hai vị mang tên là hà thủ ô: (1) Hà thủ ô đỏ là vị đúng, được Trung Quốc, Nhật Bản coi là vị chính thức; (2) Hà thủ ô trắng thường coi là nam hà thủ ô. Chúng tôi giới thiệu cả hai vị.
Hà thủ ô đỏ - 何首烏 (何首乌). Còn gọi là thủ ô, giao đằng, dạ hợp, địa tinh, khua lình (Thái), măn đăng tua lình (Lào - Sầm nưa), mằn năng ón (Thổ). Tên khoa học Polygonum multiflorum Thunb. Fallopia multìlora, (Pteuropterus cordatus Turcz). Thuộc họ Rau răm (Polygonaceae). Hà thủ ô đỏ (Radix Polygoni multiflori) là rễ củ phơi khô của cây hà thủ ô.
Hà thủ ô trắng - 白首烏 (白首乌). Còn có tên là hà thủ ô nam, bạch hà thủ ô, củ vú bò, dây sữa bò, dây mốc, cây sừng bò cây đa lông, khâu cần cà (Thổ), khâu nước (Lạng Sơn), mã liên an, mã lìn ón, khua mak tang ning (Lào), khua khao (Luang Prabang, chừa ma sìn (Thái). Tên khoa học Streptocaulon juventas (Lour) Merr. (Apocynum juventas Lour., Tylophora juventas Woodf.). Thuộc họ Thiên lý (Asclepiadaceae).
Hải mã - 海馬 (海马). Còn có tên là cá ngựa, hải long, thủy mã. Tên khoa học Hippocamphus sp. Hải mã (Hippocampus) là toàn con cá ngựa phơi hay sấy khô.
Hải sâm - 海参. Còn gọi là đỉa biển - đỉa bề, sea-slug (Anh). Tên khoa học Stichopus selenka.
Hàn the - 硼砂. Còn gọi là bồng sa, bàng sa, bồn sa, nguyệt thạch. Tên khoa học Borax.
Hàn the - 異葉山綠豆 (异叶山绿豆). Tên khoa học Desmodium heterophyllum (Willd.) DC. Thuộc họ Cánh bướm Fabaceae (Papilionaceae).
ĐỐI TÁC - LIÊN KẾT
[ Lên đầu trang ]