Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu

TÙNG HƯƠNG - 松香

Còn gọi là tùng chi, tùng cao, tùng giao.

Tên khoa học Resina Pini - Colophonium.

thông đuôi ngựa, tùng hương, 松香, tùng chi, tùng cao, tùng giao, Resina Pini - Colophonium, họ Thông, Pinaceae

Thông đuôi ngựa - Pinus massoniana

Tùng hương hay tùng chi là phần đặc còn lại sau khi cất nhựa thông với nước.

A. MÔ TẢ CÂY

Thông là một loại cây to, cao tới 20-30m đường kính thân có thể tới 2m, thân thẳng vỏ xù xì, nứt nẻ. Lá hình kim bao giờ cũng xanh tươi, chỉ có một gân nhỏ, mọc tụ 2 hay 3 lá, tùy theo loài. "Hoa" là những khối hình nón gần như không cuống.

Ở Việt Nam, Lào và Cămpuchia có mấy loài sau đây:

1. Thông hai lá còn gọi là thông nhựa (Pinus merkusii Jungh et De Vries) thuộc họ Thông (Pinaceae): Cây gỗ cao, lá hình kim dài, xanh đậm 2 lá trong 1 bẹ chung. Nón cái lớn, hóa gỗ, lá bắc dày cứng, hạt có cánh dẹt, cho nhiều nhựa, do đó mang tên thông nhựa.

2. Thông hai lá còn gọi là thông đuôi ngựa (Pinus massoniana Lambert) cùng  thuộc họ Thông (Pinaceae): Giống cây trên, thân có vỏ nứt, mảnh tán dày, dựng đứng. Cây cho ít nhựa, thường mọc xen kẽ với cây thông nhựa.

3. Ở miền nam Trung Bộ và Cămpuchia còn có thông ba lá (Pinus khasya Royle) thuộc cùng họ Thông (Pinaceae): Mỗi bẹ có 3 lá.

Tại Trung quốc, ở Quảng Đông và Phúc Kiến, người ta khai thác cây thông đuôi ngựa (mã vĩ tùng) (Pinus massoniana Lambert) và miền bắc Trung Quốc khai thác cây du tùng (Pinus tabulaeformis Carr) thuộc cùng họ.

B. PHÂN BỐ, THU HÁI VÀ CHẾ BIẾN

Ở miền Bắc nước ta thông được trồng tập trung nhiều nhất ở Quảng Ninh, người ta ước tính thông chiếm hàng vạn hecta chạy suốt từ đông sang tây, sau đến Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Bình, một ít ở Bắc Cạn, Thái Nguyên.

Tại miền Nam, trên cao nguyên Langbiang giữa Phan Rang-Phan Thiết thông chiếm diện tích khoảng chục vạn hecta; Lào, Cămpuchia cũng đều có.

Thông ưa đất cát. Trồng thông bằng hạt. Sau 4-5 năm trồng thì bắt đầu tỉa, phải tỉa sao cho cành đụng nhau nhưng không xen kẽ vào nhau.

Thường trồng thông sau 15-20 năm mới bắt đầu khai thác nhựa. Khi ấy cây có đường vòng chừng 60cm.

Thường người ta phân biệt hai loại thông: Thông để sống lâu, thì cứ 4 năm lấy nhựa một lần và chỉ lấy nhựa khi nơi thân cây cách mặt đất 1,5m có đường vòng 1m. Loại thông cần chặt đi cho quang bớt thì lấy nhựa cho đến hết. Sau đó ngả cây. Cây thông cho nhựa nhiều nhất vào năm 60 tuổi, sau đó lượng nhựa giảm dần.

Thời gian lấy nhựa bắt đầu từ tháng 3 đến tháng 10. Nhưng ngay từ tháng 2, người ta đã cạo cho mỏng bớt vỏ trên một khoang rộng 10-15cm, dài 60-80cm. Đến tháng 3, người ta dùng một loại cuốc nhỏ riêng đẽo một mảnh vỏ rộng  khoảng 9cm, sâu 1cm, vào lớp gỗ giác cao 3-4cm.

Nhựa chảy từ vết thương ra nhưng rồi rất chóng ngừng lại. Đó là giai đoạn chảy nhựa ban đầu có tính chất sinh lý, phần nhựa dự trữ trong cây bị dốc ra. Quanh vết thương sẽ thành một lớp gỗ mới với rất nhiều mạch bài tiết. Cạo lần sau, nhựa sẽ chảy lại, nhựa chảy lần này do tính chất bệnh lý. Hễ thấy ngừng chảy lại nạo lại, mỗi tuần nạo 1 lần. Năm đầu đẽo cao khoảng 60cm, năm thứ 4 chừng 3m.

Muốn giữ cây sống lâu, cứ sau 4 năm lấy nhựa lại nghỉ 1 năm. Năm đầu nạo ở phía đông, năm sau nạo cách chỗ năm trước 120o. Nhựa chảy ra theo máng kẽm dính vào thân cây được hứng vào một bình nhỏ bằng sành. Sau đó cho vào một thùng sắt hay gỗ thể tích 17-18 lít.

Ở Quảng Ninh, một cây thông trung bình cho khoảng 18% tinh dầu và 60% tùng hương (côlôphan), như vậy mỗi cây một năm cho khoảng 700g tinh dầu và 2kg côlôphan. Nếu lấy kiệt cho đến chết, thì một cây có thể cho tới 8kg nhựa hay hơn nữa. Năng suất một hecta thay đổi tùy theo tuổi của cây và số cây. Số cây  trong một hecta lúc đầu nhiều, sau 20 năm còn chừng 750 cây, sau 35 năm còn  250 cây, về sau chỉ để 70-100 cây trên một hecta. Trung bình một hecta cho khoảng 350-400kg nhựa. Những năm mưa năng suất nhựa kém hơn, nhưng tỷ lệ tinh dầu lại cao hơn các năm khô ráo.

Về phẩm chất nơi nào cất tốt, thì chất lượng nhựa cũng tốt hơn.

Riêng trong năm 1955, tại Hoàng Mai (Nghệ An) cho được 700 lít tinh dầu mỗi tháng, tính ra một năm có thể được 20 tấn tinh dầu và 40 tấn tùng hương.

Nhựa thông thu hoạch về có thể đem tinh chế để sử dụng: Cho nước vào nhựa rồi đun nóng. Cặn và nước sẽ lắng xuống dưới. Nhựa tốt nổi ở trên.

Muốn chế tùng hương, người ta cho nhựa thông và nước vào nồi rồi cất kéo hơi nước: Tinh dầu sẽ cất theo hơi nước, ta được tinh dầu thông, chất còn lại trong nồi cất là tùng hương (côlôphan). Nếu trước khi cất tinh dầu, nhựa thông đã được tinh chế thì tùng hương sẽ sạch và ít tạp chất. Nếu nhựa thông chưa được tinh chế trước khi cất tinh dầu thì sau khi cất, ta phải tinh chế lại tùng hương với nước. Chất bẩn sẽ lắng trong nước. Nếu cần dùng dung môi như benzen để hòa tan và lọc.

C. THÀNH PHẦN HÓA HỌC

Trong tùng hương thành phần chủ yếu là anhydrit abietic, và một ít axit abietic, tất cả khoảng 80%. Ngoài ra còn một ít recsen, một ít tinh dầu (khoảng 0,5%) và một ít chất đắng.

D. CÔNG DỤNG VÀ LIỀU DÙNG

Nhựa thông, tinh dầu thông và tùng hương có nhiều công dụng trong công nghiệp sơn, mực .v.v., cho nên nhựa thông, tinh dầu thông, tùng hương thuộc loại tinh dầu và nhựa có nhu cầu to lớn, sản lượng to lớn trên thế giới.

Ở đây chỉ đóng khung trong công dụng ở y dược.

Theo tài liệu cổ: Tùng hương có vị đắng, ngọt, tính ôn độc; có tác dụng táo thấp, khư phong, sát trùng, sinh cơ, chỉ thống, bài nùng (hết đau, hết mủ). Thường dùng chữa mụn nhọt, ghẻ lở.

Hiện nay tùng hương thường chỉ thấy hay dùng nấu cao dán nhọt. Hầu như không thấy dùng uống trong.

Đơn thuốc có tùng hương:

Cao tùng hương (tùng chi cao) (trích trong Chính trị chuẩn thẳng) dùng chữa những mụn nhọt lâu ngày không liền miệng: Tùng hương, hoàng liên, hoàng cầm, khổ sâm, sà sàng tử, đại hoàng, khô phàn, hồ phấn, thủy ngân - tất cả tán nhỏ, đun với mỡ lợn dán lên mụn nhọt.

Chú thích:

Cùng loại với tùng hương trong Đông y còn hay dùng các vị sau đây:

    1. Một dược (Myrrha) còn gọi là Myrrhe là chất gôm nhựa chích từ cây Commiphora momol Engler hay Commiphora abyssinica Engl, thuộc họ Trám (Burseraceae). Cây này chưa thấy ở ta. Trước đây ta nhập của Trung Quốc, nhưng bản thân Trung Quốc cũng phải nhập từ các nước tây châu Phi, vùng Hồng Hải, Somali, Abytsini, Ả Rập. Thành phần chủ yếu của một dược gồm 28-40% nhựa và tinh dầu, 61% gôm, 3-4% tạp chất và một ít chất đắng. Tinh dầu một dược chứa axit tự do, axit axetic, axit panmitic (tinh dầu cũ), hay tinh dầu kết hợp (tinh dầu mới cất), andehyt cuminic, eugenola, limonen, pinen, tecpen và dipenten. Nhựa một dược gồm 21-23% tan trong ête, và 5% không tan trong ête. Phần tan chứa axit α và β myrrhololic. Phần không tan gồm 2 nhựa resin phenolic, α và β herabomyrrholola, α, β và γ axit commiphoric.

    Đông y dùng một dược để chế một số cao dán nhọt có tính chất hoại huyết, giảm đau, tiêu thũng. Có khi dùng làm thuốc điều kinh. Tây y dùng trong công nghiệp nước hoa, thuốc bổ, trấn kinh. Uống trong với liều 0,2-2g.

    2. Nhũ hương (Mastic hay Olibaum) là chất nhựa dầu lấy ở cây nhũ hương (Pistacia lenticus L) thuộc họ Đào lộn hột (Anacardiaceae). Vì chất nhựa cây này chảy xuống đông thành hình giọt như đầu vú lại có mùi thơm do đó có tên (nhũ = "vú", hương = "mùi thơm"). Cây này cũng chưa có ở nước ta. Trước đây ta phải nhập của Trung Quốc, nhưng Trung Quốc cũng nhập từ một số nước ven Địa Trung Hải. Trong nhũ hương có 90% hỗn hợp axit mastixic C20H32O2, axit masticolic, và một ít masticaresen. Ngoài ra có khoảng 2% tinh dầu mùi long não trong đó chủ yếu là d.pinen. Nhũ hương thường dùng chế thuốc cao dán nhọt chữa đau sưng tiêu độc. Còn dùng trong công nghiệp chế vecni.

Nguồn: Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tác giả: Giáo sư Tiến sĩ khoa học ĐỖ TẤT LỢI



Xin vui lòng ghi rõ nguồn http://www.dotatloi.com khi phát hành lại thông tin.


Tuyên bố miễn trừ trách nhiệm:
Thông tin trên www.dotatloi.com chỉ phục vụ nghiên cứu học tập và mở rộng kiến thức. Không sử dụng làm căn cứ để tiến hành chẩn trị trên lâm sàng. Thông tin trên www.dotatloi.com có thể được trích dẫn, thu thập từ các ấn phẩm, các trang tin điện tử liên quan trong nước và ngoài nước. Nếu phát sinh vấn đề bản quyền, kính đề nghị phản hồi cho chúng tôi.

Viết bình luận

Để thuận tiện cho việc đăng tải, xin vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.
Chúng tôi mong muốn nhận được những bình luận theo hướng mở rộng hoặc bổ sung thông tin liên quan đến bài viết.
Chúng tôi sẽ khóa những bình luận có ngôn từ mang tính kích động hoặc bất nhã.

focus Tràm và khuynh diệp
15/04/2025 11:45 CH

Tên tràm và khuynh diệp hiện nay thường được dùng lẫn lộn để chỉ một số cây cho tinh dầu có mùi và công dụng gần giống nhau, hoạt chất căn bản cũng như nhau, nhưng tỷ lệ hoạt chất có khác nhau, do đó cần chú ý để tránh nhầm lẫn, cũng như khi cần giới thiệu ...

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu
Tên vị thuốc Mô tả
Hoàng cầm - 黃芩. Tên khoa học Scutellaria baicalensis Georg. Thuộc họ Hoa môi (Lamiaceae) (Labiatae). Hoàng cầm (Radix Scutellariae) là rễ phơi hay sấy khô của cây hoàng cầm Scutellaria baicalensis Georg. Hoàng cầm là một vị thuốc thông dụng, hiện nay chưa thấy ở nước ta, nhưng vì có người nhận nhầm một số cây khác ở ta làm hoàng cầm cho nên chúng tôi giới thiệu ở đây để tham khảo và để chú ý di thực. Hoàng = vàng, cầm = kiềm (vàng sẫm) vì vị thuốc có màu vàng sẫm.
Hoàng đằng - 黄藤. Còn gọi là nam hoàng liên, thích hoàng liên. Tên khoa học Fibraurea tinctoria Lour. (Fibraurea recisa Pierre). Thuộc họ Tiết dê (Menispermaceae).
Hoàng đằng chân vịt - 毛葉輪環藤 (毛叶轮环藤). Còn gọi là tờ rôn, nhân sâm, sâm nam, plou, plou bat (Cămpuchia). Tên khoa học Cyclea peltata Hook. et. Thw (Cocculus peltatus DC). Thuộc họ Tiết dê (Menispermaceae).
Hoàng đằng loong trơn Tên khoa học Cyclea bicristata Diels. Thuộc họ Tiết dê (Menispermaceae). Còn gọi là sâm hai sóng.
Hoàng liên - 黃連. Hoàng liên (Coptis - Rhizoma Coptidis) là thân rễ phơi khô của nhiều loài hoàng liên chân gà như Coptis quinquesecta, Coptis sinensis Franch, Coptis teeta Wall., Coptis teetoides C. Y. Cheng, .v.v. đều thuộc họ Mao lương (Ranunculaceae).
Hoàng liên gai - 小蘗紅豆杉. Còn gọi là hoàng mù - hoàng mộc. Tên khoa học Berberis wallichiana DC. Thuộc họ Hoàng liên gai (Berberidaceae).
Hoàng liên ô rô - 闊葉十大功勞 (阔叶十大功劳). Còn gọi là thập đại công lao (Trung Quốc). Tên khoa học Mahonia bealii Carr. Thuộc họ Hoàng liên gai (Berberidaceae).
Hoàng nàn - 長籽馬錢 (长籽马钱). Còn gọi là vỏ dãn, vỏ doãn. Tên khoa học Strychnos wallichiana Steud, ex Dc., Strychnos gauthierana Pierre (Strychnos malacensis Clarke). Thuộc họ Mã tiền (Loganiaceae). Hoàng nàn (Cortex Strychnii gauthieranae) là vỏ thân phơi hay sấy khô của cây hoàng nàn.
Hồi - 大茴香. Còn gọi là đại hồi, bát giác hồi hương, đại hồi hương. Tên khoa học Illicium verum Hook.f. Thuộc họ Hồi (Illiciaceae). Đại hồi hay bát giác hồi hương (Fructus Anisi Stellati hoặc Anisum stellatum hay Illicium) là quả chín phơi khô của cây hồi. Hồi là về, hương là thơm; thịt thiu hay tương thối cho ít đại hồi vào nấu thì mùi thơm lại trở về do đó có tên.
Hồi đầu thảo - 水田七. Còn gọi là vùi đầu thảo, vui sầu. Tên khoa học Schizocapsa plantaginea Hance. Thuộc họ Râu hùm (Taccaceae).
Hồi núi - 八角. Còn gọi là đại hồi núi (Faux badianier), mu bu (tiếng Mèo). Tên khoa học Illicium griffithii Hook. f. et Thoms. Thuộc họ Hồi (Illiciaceae).
Hồng bì - 黄皮. Còn gọi là hoàng bì. Tên khoa học Clausena lansium (Lour.) Skeels [Clausena wampi (Blanco) Oliv.]. Thuộc họ Cam quít (Rutaceae).
Hồng đậu khấu - 紅豆蔻 (红豆蔻). Còn gọi là sơn khương tử, hồng khấu. Tên khoa học Alpinia galanga Willd. Thuộc họ gừng (Zingiberaceae). Hồng đậu khấu - (Fructus Alpiniae galangae) là quả chín phơi hay sấy khô của cây riềng nếp (Alpinia galanga Willd.).
Hublông - 啤酒花. Còn gọi là houblon, hương bia, hoa bia. Tên khoa học Humulus lupulus L. Thuộc họ Gai mèo (Cannabinaceae).
Húng chanh - 左手香. Còn có tên là rau thơm lông, rau tần, tần dày lá, rau thơm, dương tử tô, sak đam ray (Cămpuchia). Tên khoa học Coleus aromaticus Benth. (Colus crassifolius Benth). Thuộc họ Hoa môi Lamiaceae (Labiatae).
Húng quế - 羅勒 (罗勒). Còn gọi là húng giổi, rau é, é tía, é quế, hương thái, pak bua la phe, phak y tou (Lào) mreas preou (Campuchia), gand basilic, basilic commum. Tên khoa học Ocimum basilicum L. var. basilicum. Thuộc họ Hoa môi Lamiaceae (Labiatae).
Hương bài - 山菅蘭 (山菅兰). Còn gọi là cát cánh lan, lưỡi đòng, huệ rừng - hương lâu, rẻ quạt, xường quạt, sơn gian lan. Tên khoa học Dianella ensifolia DC. (Dianella odorata Lamk. Dianella javanica Kunth., Dianella sandwicensis Hook. et Arn. Dianella nemorosa (L.) DC.). Thuộc họ Hành tỏi (Liliaceae). Cần chú ý ngay rằng tên hương bài dùng để chỉ hai cây khác nhau về hình dáng cũng như về họ thực vật. Cây hương bài thứ hai còn có tên là hương lau (Vetiveria zizanioides Nash) thuộc họ Lúa (Gramineae), rễ dùng nấu nước gội đầu cho thơm và cất tinh dầu hương bài.
Hương diệp Còn gọi là cây lá thơm, giêranium. Tên khoa học Pelargonium roseum Willd. Thuộc họ Mỏ hạc (Geraniaceae). Hương diệp là tên đặt theo tên Trung Quốc. Bản thân Trung Quốc cũng mới di thực cây này với mục đích cất một loại tinh dầu có mùi hoa hồng, thay cho tinh dầu hoa hồng quá đắt. Ta cũng mới đặt vấn đề di thực cây này. Chưa phát triển rộng.
ĐỐI TÁC - LIÊN KẾT
[ Lên đầu trang ]