TỤC TÙY TỬ - 續隨子 (续随子)
Còn gọi là Thiên kim tử.
Tên khoa học Euphorbia lathyris Lin.
Thuộc họ thầu dầu (Euphorbiaceae).
Tục tùy tử - Euphorbia lathyris
A. MÔ TẢ CÂY
Cỏ sống hai năm, cao 1m thân rỗng.
Lá ở thân không cuống, không có lá kèm, hình giáo nhọn, mọc đối chéo chữ thập, chỉ có gân giữa nỏi lển rõ rệt thôi. Ở phần ngọn thân, lá ngắn hơn, gần hình tim. Ở kẽ lá có một tán chia thành 2-5 nhánh, mỗi nhánh kết thúc bởi một cụm hoa hình chén, nom giống một hoa đều lưỡng tính. Mỗi chén gồm có một tổng bao 5 lá bắc liền nhau gốc, rời và nhọn. Trong những chỗ nõm ngăn cách ngọn các lá bắc có 4 tuyến hình lưỡi liềm.
Từ miệng chén mọc ra vô số hoa đực và mỗi hoa một hoa cái ở giữa, mang bởi một cuống dài, thoạt tiên đứng, về sau cong xuống đất. Mỗi hoa đực giảm chỉ còn mỗi một nhị, chỉ ngắn mang bao phấn 2 ô mở bưỏi kẽ nứt dọc hướng ngoài. Chỉ nhị đặt trên một cái chân hình trụ, giới hạn bởi một chỗ thắt vòng quanh gọi là khớp. Hoa cái trần, giảm thành một nhụy cấu tạo bởi 3 lá noãn, bầu 3 ô mang 3 vòi gần rời nhau, chẻ đôi ở ngọn. Mỗi ô đựng một noãn có nút úp lên trên.
Quả nang có 3 mảnh vỏ, tách rời khỏi trụ quả và mở bởi một kẻ nứt ở giữa lưng. Hạt có mồng, vỏ ngoài màu nâu mờ, trong đựng cây mần và nội nhũ.
B. PHÂN BỐ, THU HÁI VÀ CHẾ BIẾN
Cây mới di thực vào nước ta khoảng 20 năm nay, nhưng mới chỉ được trồng lẻ tẻ tại một vài vườn thuốc địa phương.
Mùa hoa vào các tháng 4-7, mùa thu hái hạt dùng làm thuốc với tên tục tùy tử hay thiên kim tử vào các tháng 8-9.
Hạt hái về bỏ tạp chất, phơi hay sấy khô.
C. THÀNH PHẦN HÓA HỌC
Trong hạt tùy tục tử có từ 40-46% dầu béo, chất gôm. Ngoài ra còn có euphorbiasteroit (độ chảy 199o5 là dẫn xuất của epoxylathyrol và những dẫn xuất của cumarin như aesculin, daphnetin, daphnin và biaesculetin (còn gọi là euphorbetin):
D. CÔNG DỤNG VÀ LIỀU DÙNG
Tục tùy tử là một vị thuốc lợi tiểu, tẩy mạnh có tác dụng hành thủy, phá huyết.
Theo tài liệu cổ: Tục tùy tử có vị cay, tính ôn và có đọc vào hai kinh Can và Thận. Có tác dụng hành thủy, phá huyết, công tích, trục ẩm. Thường dùng chữa thủy thũng trướng mãn, huyết kết làm kinh nguyệt bế tắc, đàm ẩm trưng kết.
Thường dùng dưới dạng thuốc sương nghĩa là đã bỏ vỏ, lấy nhân ép vào giữa hai tờ giáy bản, ép bỏ dầu dùng bã. Ngày dùng 0,3 đến 0,6g bã này (sương).
Dùng ngoài đắp lên chỗ mẩn ngứa.
Chú thích: Ngoài công dụng làm thuốc, gần đây Menvin Canvin ở đại học Califocrnia đã phát hiện cây tục tùy tử và cây xương khô (Euphorbiatirucalli Lin) (xem vị này) đều chứa chất hydrocacbua giống dầu mỏ lại ít tạp chất hơn dầu mỏ vì không có chất lưu huỳnh gây khó khăn trong việc chế biến. Hai cây này có thể mọc khỏe trên những đất khô cắn, và cho năng xuất khoảng 15 tấn/ha. Cavin đã tính với diện tích sa mạcvùng Adizona, 2 cây này có thể thỏa mãn nhu cầu về xăng chạy xe hơi của xứ mình.
Viết bình luận
Để thuận tiện cho việc đăng tải, xin vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.
Chúng tôi mong muốn nhận được những bình luận theo hướng mở rộng hoặc bổ sung thông tin liên quan đến bài viết.
Chúng tôi sẽ khóa những bình luận có ngôn từ mang tính kích động hoặc bất nhã.