Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu

TRÁM - 橄欖 (橄榄)

Còn gọi là cảm lãm, trám trắng, cà na, thanh quả, đêm ta lát (Cămpuchia).

Tên khoa học Canarium album (Lour) Raensch (Canarium sinensis Rumph, Pimela alba Lour.).

Thuộc họ Trám (Burseraceae). (1)

TRÁM, 橄欖, 橄榄, cảm lãm, trám trắng, cà na, thanh quả, đêm ta lát, Canarium album (Lour) Raensch, Canarium sinensis Rumph, Pimela alba Lour., họ Trám, Burseraceae

Trám trắng - Canarium album

Thanh quả (Fructus Canarii) là quả trám trắng chín phơi hay sấy khô.

Còn có tên là can thanh quả hay cảm lãm.

A. MÔ TẢ CÂY

Trám trắng là một cây cao từ 12-15m thân mọc thẳng đứng, đường kính đạt tới 0,40-0,60m.

Lá mọc so le, kép lông chim gồm 5-7 đôi lá chét; cuống lá chung dài bằng 1/4-1/3 toàn lá, cuống lá chét dài 5-8mm. Lá chét dài 5-17cm, rộng 2-5,5cm mép nguyên.

Hoa hình cầu, màu trắng, mọc thành từng nhóm 2-3 thành chùy ở đầu cành hay kẽ lá. Chùy dài 8-10cm.

Quả hình thoi, hai đầu tù, dài 45mm, rộng 20-25mm, hạch cứng nhẵn, hình thoi với 2 đầu nhọn, trong có 3 ngăn. Mùa hoa tháng 6-7, mùa quả tháng 8-10.

B. PHÂN BỐ, THU HÁI VÀ CHẾ BIẾN

Cây trám mọc hoang và được trông ở nhiều nơi trong nước ta. Tại Trung Quốc, trám trắng được trồng ở các tỉnh Tứ Xuyên, Vân Nam, Hải Nam, Quảng Đông, Quảng Tây, Phúc Kiến.

Thường người ta lấy quả, vào tháng 9-10, quả chín, hái về phơi khô trong mát là được.

Ngoài việc khai thác quả, nhân dân ta còn khai thác nhựa trám để làm hương thắp và để cất tinh dầu hay chế côlôphan trám.

Muốn lấy nhựa trám, người ta chích thân và nhiều khi cả trên rễ nổi trên mặt đất. Thường chỉ chích nhựa trên những cây to, đã bắt đầu cho quả. Mỗi năm, một cây trám cho từ 5 đến 8kg nhựa (cây chừng 20 tuổi). Nhựa khi mới chảy có màu trắng xanh nhạt, dần dần đặc lại và thường được đựng trong các thùng để đem tiêu thụ tại những chợ gần đó.

C. THÀNH PHẦN HÓA HỌC

Trong quả trám có chừng 1,2% chất protit, 1% chất béo, 12% chất hydrat cacbon, 0,204% canxi, 0,06% photpho, 0,0014% chất sắt và 0,021% vitamin C (theo kết quả phân tích của Viện vệ sinh Trung Quốc, 1975).

Trong nhân quả trám có chừng 50-65% chất dầu béo.

Nhựa trám là một chất mềm, màu vàng nhạt, nhưng nhiều khi có màu sẫm đen là do các cành lá, vỏ lẫn vào. Mùi thơm dễ chịu. Đun nóng (90o) sẽ chảy lỏng. Tan trong ête dầu hoả (có thể dùng để tinh chế); khi cất kéo bằng hơi nước, nhựa trám sẽ cho 18-30% tinh dầu.

Tinh dầu này không màu hay màu hơi vàng nhạt, lỏng, mùi thơm, tỷ trọng 0,887-0,841, hơi hữu tuyền. Khi đun tinh dầu một phần bắt đầu cất từ 100oC, nhưng phần lớn cất từ 158-177oC. Nếu lắc tinh dầu với natri bisnfit, chừng 6% tinh dầu tan trong đó (chất andehyt) tinh dầu còn lại sẽ có mùi thơm. Thành phần chủ yếu của tinh dầu trám đã được xác định là sabinen (45%), một nguyên liệu để tổng hợp chất thơm dùng trong hương liệu. Ngoài ra còn tecpinen (16,7%), tecpineol (10,8%), pinen (9%), tecpinen (4,9%)...

Sau khi cất tinh dầu, còn lại một chất côlôphan, tan hoàn toàn trong ête, và tan một phần trong cồn lạnh. Chất nhựa trám được tiêu thụ trên thị trường quốc tế với tên Elemi.

C. CÔNG DỤNG VÀ LIỀU DÙNG

Quả trám trắng chỉ mới thấy dùng trong nhân dân.

Tính chất chữa bệnh của trám ghi trong các tài liệu đông y cổ là: Vị chua ngọt, chát, tính ôn, không độc; vào 2 kinh phế, lợi yết hầu sinh tân chỉ khát, giải độc, là thuốc chữa yết hầu sưng đau, hòa hãn tư bổ, có thể giải được say rượu, nọc cá độc, nọc con dải, còn dùng chữa cổ họng sưng đau, ho nhiều đờm.

Ngày dùng 2 đến 3 quả hoặc có thể hơn.

Nhựa trám dùng cất tinh dầu dùng trong kỹ nghệ nước hoa, côlôphan còn lại có thể dùng trong kỹ nghệ xà phòng, vécni. Trong kháng chiến, tinh dầu đã được dùng làm dung môi chiết suất cafein trong lá chè. Trong nhân dân dùng nhựa trám trộn với thân đậu tương làm hương thơm tháp khi cúng bái ngày lễ.

Đơn thuốc có thanh quả hay quả trám trong nhân dân:

   - Chữa hóc xương cá: Ngậm quả trám, nuốt lấy nước. Hoặc sắc 5 quả trám, lấy nước cho ngậm và nuốt.

   - Chữa ngộ độc do ăn phải cá độc: 3 quả trám sắc lấy nước uống.

   - Cao quả trám: Quả trám bóc bỏ hột: 100g. Thêm nước nấu đặc thành cao lỏng, sau thêm 50g phèn chua cô đặc lại lần nữa. Ngày dùng 2-3 lần, mỗi lần 2-3g chữa cổ họng sưng đau nhiều đờm.

Chú thích:

   Ngoài cây trám trắng kể trên, ở nước ta người ta còn trồng cây trám đen hay cây bùi, ô lãm (Canarium nigrum. Lour. Engl. hay Canarium pimela  Keen-Pimela nigra Lour.) cùng thuộc họ Trám (Burseraceae). Cây cao trung bình. Lá dài 20-25cm, kép hình lông chim, gồm 4 đôi lá chét. Hoa mọc thành chuỳ mang những nhánh gồm nhiều chùm tán 6-10 hoa. Quả hình trứng màu tím đen sẫm, dài 3-4cm, rộng 2cm, hạt cứng có 3 ngăn. Cây này được trồng ở nhiều nơi trong nước ta để lấy quả ăn và lấy nhựa trám. Mùa quả vào tháng 10-12. Quả trám đen thường luộc ăn. Khi luộc trám nấu nước sôi quả trám sẽ cứng, nhưng nếu non quá trám sẽ nát. Thường người ta cho muối vào nước (để cho đậm quả trám). Đun cho sôi, cho quả trám vào rồi bắc ra ngay để nguội dần là trám vừa chín và bùi, béo.

   Nhựa trám đen cũng lấy như nhựa trám trắng. Trong nhân trám trắng và trám đen có chừng 50-70% chất côlôphan.

   Nhựa trám đen cùng một công dụng như trám trắng. Trong nhân trám trắng và trám đen có chừng 50-65% chất dầu béo có thể dùng làm dầu chạy máy.

Chú thích (1): Hiện nay một số tác giả nhập họ Bursraceae vào họ Anacardiaceae.

Nguồn: Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tác giả: Giáo sư Tiến sĩ khoa học ĐỖ TẤT LỢI



Xin vui lòng ghi rõ nguồn http://www.dotatloi.com khi phát hành lại thông tin.


Tuyên bố miễn trừ trách nhiệm:
Thông tin trên www.dotatloi.com chỉ phục vụ nghiên cứu học tập và mở rộng kiến thức. Không sử dụng làm căn cứ để tiến hành chẩn trị trên lâm sàng. Thông tin trên www.dotatloi.com có thể được trích dẫn, thu thập từ các ấn phẩm, các trang tin điện tử liên quan trong nước và ngoài nước. Nếu phát sinh vấn đề bản quyền, kính đề nghị phản hồi cho chúng tôi.

Viết bình luận

Để thuận tiện cho việc đăng tải, xin vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.
Chúng tôi mong muốn nhận được những bình luận theo hướng mở rộng hoặc bổ sung thông tin liên quan đến bài viết.
Chúng tôi sẽ khóa những bình luận có ngôn từ mang tính kích động hoặc bất nhã.

Diêm sinh
03/07/2025 07:50 CH

- 硫黄. Còn gọi là hoàng nha, lưu hoàng, thạch lưu hoàng, oải lưu hoàng. Tên khoa học Sulfur.

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu
Tên vị thuốc Mô tả
Kẹo mạch nha - 飴糖 (饴糖). Còn gọi là kẹo mạ, di đường. Tên khoa học Sacharum granorum. Kẹo mạch nhà là chất đường do tác dụng của men trong hạt thóc nẩy mầm trên tinh bột gạo nếp, gạo tẻ hay một ngũ cốc nào khác, rồi cô đặc lại. Kẹo mạch nha được dùng từ lâu đời. Các tài liệu cổ cho kẹo mạch nha làm mạnh dạ dày, bổ tỳ nhuận phổi.
Keo nước hoa - 金合歡 (金合欢). Còn gọi là keo ta, mân côi, mak ku kong, kum tai (Lào), sambor meas (Cămpuchia), cassie du Levant. Tên khoa học Acacia farnesiana Willd. (Mimosa farnesiana L.). Thuộc họ Trinh nữ (Mimosaceae).
Kha tử - 訶子 (诃子). Còn gọi là cây chiều liêu, myrobolan de commerce. Tên khoa học Terminalia chebula Retz. (Terminalia reticulata Roth., Myrobalanus chebula Gaertn.). Thuộc họ Bàng (Combretaceae). Kha tử (Fructus Teminaliae) là quả chín sấy hay phơi khô của cây chiều liêu hay kha tử.
Khế - 陽桃 (阳桃). Còn gọi là khế ta, khế cơm, khế chua, khế giang, ngũ lãng tử, dương đào, ngũ liêm tử. Tên khoa học Averrhoa carambola L.. Thuộc họ Chua me đất (Oxalidaccae). Vì quả khế có 5 cạnh nên gọi là ngũ liễm (liễm là thu lại, tụ lại).
Khế rừng - 小葉紅葉藤 (小叶红叶藤). Còn gọi là dây quai xanh, cây cháy nhà. Tên khoa học Rourea microphylla Planch. Thuộc họ Khế rừng (Connaraceae).
Khỉ - 獼猴 (猕猴). Còn gọi là hầu. Tên khoa học Macaca sp. Thuộc họ Khỉ (Cercopithecidae). Khỉ cho ta những vị thuốc sau đây: (1) Cao xương khỉ còn gọi là cao khỉ, cao hầu nấu bằng xương khỉ; (2) Cao khỉ toàn tính nấu bằng toàn bộ con khỉ, cả xương và thịt; (3) Hầu táo còn gọi là hầu đan hay hầu tử táo (Calculus macacae) tức là sỏi trong túi mật của con khỉ.
Khiếm thực - 芡實 (芡实). Còn có tên kê đầu, khiếm. Tên khoa học Euryale rerox Salisb. Thuộc họ súng (Nympheceae). Ở Việt Nam hiện nay dùng hai vị thuốc mang tên khiếm thực, ta cần chú ý để phân biệt. (1) Hạt phơi hay sấy khô (Semen Euryales) của cây khiếm thực nói trên.Vị này mới đúng là vị khiếm thực nhưng còn phải nhập của Trung Quốc vì nước ta chưa thấy cây này. (2) Thân rễ củ phơi hay sấy khô của cây củ súng nhỏ Nymphaea stellata Wild. cùng họ Súng (Nymphaeaceae). Nhiều người và nhiều nơi vẫn dùng vị này với tên khiếm thực.
Khiên ngưu - 牽牛. Còn gọi là hắc sửu, bạch sửu, bìm bìm biếc, kalađana (Ấn Độ). Tên khoa học Ipomoea hederacea Jacq (Pharbitis hederacea Choisy). Thuộc họ Bìm bìm (Convolvulaceae). Khiên ngưu tử (Pharbitis hay Semen Pharbitidis) là hạt phơi khô của cây khiên ngưu hay bìm bìm biếc. Cây khiên ngưu còn cho ta vị thuốc nhựa khiên ngưu (Resina Pharbitidis). Khiên là dắt, ngưu là trâu là vì có người dùng vị thuốc này khỏi bệnh, dắt trâu đến tạ ơn người mách thuốc. Hắc sửu là chỉ hạt màu đen, bạch sửu là hạt màu trắng.
Khinh phấn - 輕粉 (轻粉). Còn gọi là thủy ngân phấn, hồng phấn, cam phấn. Tên khoa học Calomelas. Khinh phấn là muối thủy ngân clorua (HgCl2) chế bằng phương pháp thăng hoa.
Khổ sâm Tên khổ sâm có nghĩa sâm đắng được dùng để chỉ ba vị thuốc nguồn gốc và công dụng khác hẳn nhau. (1) Hạt khổ sâm: Thực tế là quả của cây sầu đâu rừng Brucea sumatrana thuộc họ Khổ sâm (Simarubaceae), hay nha đảm tử - khổ luyện tử; (2) Lá của cây khổ sâm Croton tonkinensis thuộc họ Thầu dầu (Euphorbiaceae); (3) Rễ cây dã hòe (hòe mọc hoang) Sophora flavescens. Cần chú ý khi dùng để tránh nhầm lẫn.
Khoai lang - 番薯. Còn gọi là phan chư, cam thự, hồng thự, cam chư. Tên khoa học Ipomoea batatas (L.) Poir. Thuộc họ Bìm bìm (Convolvulaceae).
Khoai nưa - 蒟蒻. Còn gọi là củ nưa, khoai na. Tên khoa học Amorphophalus rivieri Dur. Thuộc họ Ráy (Araceae).
Khoai riềng - 蕉芋. Còn gọi là cây dong riềng, khoai đao, khương vu, arrow - root du Queensland, fécule de Tolomane. Tên khoa học Canna edulis Ker. Thuộc họ Dong riềng (Canaceae).
Khoai tây - 馬鈴薯 (马铃薯). Tên khoa học Solanum tuberosum L. Thuộc họ Cà (Solanaceae). Khoai tây chủ yếu là một cây lương thực; ở đây chúng tôi chỉ chú ý tới hiện tượng đau bụng, đi ngoài do ăn khoai tây mọc mầm và dùng chất gây đau bụng đi ngoài ấy trong chữa bệnh.
Khoản đông hoa - 款冬花. Còn gọi là Tussilage (Pháp) - Chassetoux (Pháp). Tên khoa học Tussilago farfara L. Thuộc họ Cúc Asteraceae (Compositae). Khoản đông cho hai vị thuốc: (1) Hoa khoản đông (Flos Farfarae) thường gọi là khoản đông hoa, hái khi còn ở dạng nụ, hái song phơi hay sấy ngay; (2) Lá khoản đông - Folium farfarae cũng được sử dụng, nhưng ít hơn.
Khương hoạt - 羌活. Tên khoa học Rhizoma Notopterygii. Theo các tài liệu thì khương hoạt và độc hoạt cùng là một loài, vì sản xuất ở Tây Khương, cho nên gọi là Khương hoạt. Rễ cái là độc hoạt, còn rễ con là khương hoạt. Thực tế độc hoạt là một vị khác. Gần đây, một số tác giả (Trung Quốc) đã xác định khương hoạt hay xuyên khương, trúc tiết khương, hồ vương sứ giả (Notopterygium incisium Ting Mss.) thuộc họ Hoa tán Apiaceae (Umbelliferae). Ngoài ra còn có vị phúc thị khương hoạt hay tàm khương, đại đầu khương (Notopterygium forbesii Boiss.) cùng thuộc họ Hoa tán Apiaceae (Umbelliferae).
Kiến kỳ nam Còn gọi là trái bí kỳ nam, kỳ nam kiến, ổ kiến, kỳ nam gai. Tên khoa học Hydnophytum formicarum Jack. (lá rộng), Myrmecodia armata DC. (lá hẹp). Thuộc họ Cà phê (Rubiaceae).
Kim anh - 金樱子. Còn gọi là thích lê tử, đường quân tử. Tên khoa học Rosa laevigata Michsx. Thuộc họ Hoa hồng (Rosaceae). Kim anh tử (Fructus Rosae laevigatae) là quả giả hay đế hoa chín phơi hay sấy khô hoặc loại bỏ hết quả thực (ta vẫn gọi nhầm là hạt) rồi mới phơi hay sấy khô của cây kim anh (Rosa laevigata). Kim là vàng, anh là cái chén, vĩ quả giả giống cái chén, có màu vàng do đó có tên gọi như vậy.
ĐỐI TÁC - LIÊN KẾT
[ Lên đầu trang ]