Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu

THƯỜNG SƠN - 常山

Còn gọi là hoàng thường sơn, thục tất, áp niệu thảo, kê niệu thảo.

Tên khoa học Dichroa febrifuga Lour.

Thuộc họ Thường sơn (Saxifragaceae).

THƯỜNG SƠN, 常山, hoàng thường sơn, thục tất, áp niệu thảo, kê niệu thảo, Dichroa febrifuga Lour., họ Thường sơn, Saxifragaceae

Thường sơn - Dichroa febrifuga

Cây thường sơn cho ta các vị thuốc sau đây:

   - Vị Thường sơn (Radix Dichroae) là rễ phơi hay sấy khô của cây thường sơn.

   - Lá và cành phơi hay sấy khô (Folium Dichroae) được gọi là thục tất.

Trên thực tế ở Việt Nam người ta ít dùng rễ hoặc dùng cả rễ và lá đều gọi là thường sơn.

Chữ Dichroa có nghĩa là 2 màu, febrifuga có nghĩa là đuổi sốt, vì cây và lá thường sơn có 2 màu tím đỏ và xanh lại có tác dụng chữa sốt do đó có tên.

Tên thường sơn vì có ở núi Thường Sơn, đất Ba Thục (Tứ Xuyên Trung Quốc hiện nay).

A. MÔ TẢ CÂY

Thường sơn là một loại cây nhỡ cao 1-2m, thân rỗng, dễ gẫy, vỏ ngoài nhẵn màu tím.

Lá mọc đối, hình mác hai đầu nhọn, dài 13-20cm, rộng 35-90mm, mép có răng cưa mặt trên xanh, mặt dưới tím đỏ, gân tím đỏ, không có lông hoặc hơi có lông.

Hoa nhỏ màu xanh lam hay hồng, mọc thành chùm nhiều hoa mọc ở kẽ lá hay đầu cành.

Quả mong, khi chín màu xanh làm, đường kính 5mm, một ngăn. Hạt nhiều nhỏ hình lê, có mạng ở mặt, dài không đầy 1mm.

B. PHÂN BỐ, THU HÁI VÀ CHẾ BIẾN

Cây thường sơn mọc hoang rất nhiều ở các tỉnh miền rừng núi nước ta, Bắc Thái, Hà Tuyên, Hòa Bình, Hà Tây, Sapa Lào Cai cũng có mọc.

Tại Trung Quốc cũng có mọc hoang và được trồng để lấy rễ và lá dùng làm thuốc và xuất khẩu.

Mùa thu vào các tháng 8-10 người ta đào rễ về, rửa sạch đất, cắt bỏ rễ con, phơi hay sấy khô.

Nếu dùng lá, hái quanh năm nhưng tốt nhất lúc cây sắp và đang ra hoa. Hái về rửa sạch, phơi khô. Có thể dùng tươi.

C. THÀNH PHẦN HÓA HỌC

Năm 1928, M.E.Bouillat có nghiên cứu thường sơn, nhưng không lấy được một chất gì rõ rệt.

Năm 1948, chúng tôi đã chiết từ lá cây thường sơn tươi (Hà Giang, Tuyên Quang) một chất có tinh thể và có tính chất glucozit vì điều kiện kháng chiến chưa xác định các tính chất lý hóa (Đỗ Tất Lợi và Bùi Đình Sang, 1948).

Tại các nước, thường sơn được là đề tài nghiên cứu kỹ về mặt hóa học và dược lý từ năm 1946.

Trong các năm 1946-1948, các tác giả Triệu Thạch Dân, Chuyên Phú Vinh và Trương Xương Thiệu đã lấy được từ thường sơn các chất sau đây:

   1. Dicroin -α (Dicbroin) C10H21(19)O3N3 độ chảy 136o.

   2. Dicroin β C16H(19)21O3N3 độ chảy 145o.

   3. Dicroin γ C16H21(19)O3N3 độ chảy 160o.

Năm 1948, Kuehl đã chiết từ thường sơn được một số ancaloit với những tính chất sau đây:

   1. Ancaloit I (dichroin A) C16H9O3N3 độ chảy 131-132o.

   2. Ancaloit II (dichroin B) C16H19O3N3 độ chảy 140-142o.

Koepfli, các năm 1947 và 1949, đã chiết được các ancaloit đặt tên là febrifugin C16H19O3N3 độ chảy 128-130o.

Gần đây, người ta đã xác định được rằng dicroin α và chất isofebrifugin chỉ là một. Còn dicroin α, ancaloit II và febrifugin là một.

Những ancaloit trong trường sơn đều là dẫn xuất của nhân quinazolin có 3 dạng α, β và γ. Nhiệt độ, chất kiềm hay axit hoặc dung môi đều có ảnh hưởng và thay đổi các ancaloit, thành các dạng khác nhau. Trong 3 dạng đó thì dicroin  γ có tác dụng chữa sốt rét mạnh nhất.

Công thức của febrifugin và isofebrifugin đã được xác định như sau:

IMG

Tỷ lệ ancaloit toàn phần chừng 0,2% trong lá và 0,1-0,15% trong rễ. Từ cây thường sơn di thực vào Liên Xô cũ, người ta đã chiết được trong lá 0,5 -0,7% ancaloit toàn phần trong đó có 0,15-0,19% là febrifugin 0,1% isofebrifugin. Trong rễ chỉ có 0,2-0,5% ancaloit toàn phần (C. A. 19, 1971-20733t).

D. TÁC DỤNG DƯỢC LÝ

Thường sơn đã được nhiều tác giả nghiên cứu về mặt dược lý. Sau đây là một số kết quả:

1. Tác dụng chữa sốt rét.

   Năm 1945-1948, các tác giả Vương Tiến Anh và Trương Xương Thiệu đã báo cáo thí nghiệm dùng thường sơn chữa bệnh sốt rét của gà thấy cao nước với liều 1g trên 1kg thân thể có tác dụng chữa sốt rét rất rõ rệt (Trung Hoa y học tạp chí, 31: 159, 1945 và Nội khoa học báo (2: 840, 1950). Chất dicroin với liều 1mg trên 1kg thân thể so với quinin mạnh gấp 25-50 lần. Trong các dạng dicroin thì dạng γ có dụng mạnh nhất ước chừng gấp 100 lần quinin; dạng β mạnh gấp 50 lần, còn dạng α thì tác dụng tương đương với quinin.

   Các nhà nghiên cứu Mỹ thí nghiệm tác dụng chữa sốt rét của ancaloit của thường sơn so sánh với các cây khác cũng chứng minh rằng các ancaloit của thường sơn có tác dụng chữa sốt rét mạnh hơn quinin 100 lần.

   Cao thường sơn trên lâm sàng có tác dụng rõ rệt chữa sốt rét thường nhưng có nhược điểm là gây nôn làm cho bệnh nhân khó chịu (kinh nghiệm trong kháng chiến Việt Nam và báo cáo của Chu Đình Sung, Trương Xương Thiệu trong Trung Hoa y học tạp chí, 29: 137, 1943).

   Năm 1956, các tác giả Ngô Vân Dực, Lưu Văn Phú và Kim Âm Xương đã báo cáo trong hội nghị sinh lý học lần thứ nhất của Trung Quốc về tác dụng chữa sốt rét và độc tính của thường sơn cũng công nhận các kết luận nói ở trên.

2. Tác dụng chữa sốt.

   Năm 1935, Mã Văn Thiên đã báo cáo tiêm vào mạch máu 2ml trên 1kg thân thể thỏ dung dịch 0,03% trực trùng côli để gây sốt rồi tiêm dưới da dung dịch 5% thường sơn (1ml tương đương với 1,67g nguyên liệu) với liều 0,5ml trên 1kg thân thể thì thấy tác dụng hạ sốt rất rõ: nhiệt độ đang lên cao hạ xuống nhiệt độ bình thường.

   Cùng năm 1935, Kinh Lợi Bân và Lý Đăng Bảng cũng theo phương pháp trên xác nhận thường sơn có tác dụng giảm sốt, nhưng cả hai nhóm đều không thí nghiệm cho uống thuốc cho nên cũng chưa rõ cho uống thuốc thì tác dụng như thế nào.

   Năm 1947 (Trung Hoa y học tạp chí, 33: 177) Trương Xương Thiệu và Hoàng Kỳ Chương cũng báo cáo thuốc thường sơn thô chế có tác dụng chữa sốt, nhưng ancaloit toàn bộ của thường sơn không có tác dụng chữa sốt.

   3. Tác dụng trên bộ máy tuần hoàn và hô hấp. Năm 1945, Hồ Thành Nhu và Lý Hồng Hiến (Nội khoa học báo 2: 840, 1950) báo cáo ancaloit của thường sơn có tác dụng hưng phấn đối với tim ếch và tim thỏ, nhưng chất R212 (monohydroclorit α dicroin ) lại có tác dụng ức chế đối với tim ếch cô lập.

   Năm 1945 Vương Tiến Anh, Phó Vĩnh Phong và Trương Xương Thiệu đã dùng ancaloit của thường sơn thí nghiệm trên cho đã gây mê thấy hố hấp hưng phấn và huyết áp hạ xuống (Dược học 1-2: 111-131, 1953).

   Năm 1950, (Nội khoa 2:1-8) cũng báo cáo thấy kết quả như trên.

4. Độc tính.

   Năm 1935, Mã Văn Thiên đã dùng cao rượu thường sơn chế thành dung dịch 1% trong nước tiêm dới da chuột nhắt để thử độc tính, thì thấy với liều 0,2ml/10g thân thể đa số chuột chết trong vòng 15-20 phút.

   Năm 1947, Trương Xương Thiệu và Hoàng Kỳ Chương (Trung Hoa y học tạp chí  33: 177) báo cáo đã xác định nửa liều gây chết LD-50 của dicroin α, β, γ trên 1kg thân thể của gà là 20mg, chuột nhắt là 18,5mg, gà nhỏ là 7,5mg, một giống gà nhỏ khác là 10mg.

   Năm 1950, Diệm Phượng Cương đã báo cáo dùng chất có tinh thể chiết được từ rễ thường sơn và chất R212 để thí nghiệm tác dụng chữa sốt rét thì thấy trong quá trình nghiên cứu với liều 10mg trên 1kg thân thể gà hay quá liều đó thì đa số gà thí nghiệm bị chết. Dùng nước Ringer để pha chất R212 thành dung dịch 0,1% rồi thí nghiệm trên chó nhỏ và ếch thì thấy tiêm dưới da cho chó nhỏ với liều 1,5ml cho 1kg thân thể, chó sẽ phát sinh nôn mửa, đi ỉa lỏng, phân tiết dạ dày và ruột tăng cường, nhu động cũng tăng cường, niêm mạc dạ dày và ruột xuất huyết, huyết áp hạ xuống, hô hấp nhanh lên, cuối cùng thì chết.

E. CÔNG DỤNG VÀ LIỀU DÙNG

Theo tài liệu cổ: Thường sơn vị đắng, tính hàn, có độc; thục tất vị cay, tính bình có độc. Vào 3 kinh Phế, Tâm và Can. Có tác dụng thổ đờm, triệt ngược, thanh nhiệt hành thủy. Dùng chữa sốt rét mới bị hay đã lâu ngày, lão đờm tích ẩm, dẫn tới đờm đi lên sinh nôn mửa.

Thường sơn là một vị thuốc được dùng từ lâu đời trong đông y để chữa bệnh sốt rét (sốt rét thường hay sốt rét ác tính) rất có hiệu quả. Còn dùng chữa sốt thường. Tuy nhiên nhược điểm của thường sơn là gây nôn. Những ancaloit lấy ra cũng gân nôn.

Trong nhân dân có nói muốn bớt nôn cần rửa lá bằng rượu rồi mới dùng nhưng chúng tôi đã có dịp rửa rượu rồi mà vẫn gây nôn.

Thường khi dùng thường sơn phối hợp với nhiều vị thuốc khác ít nôn hơn.

Liều dùng trung bình: 6-12g dưới dạng thuốc sắc. Dùng riêng hay phối hợp với các vị thuốc khác.

Đơn thuốc có thường sơn:

   1. Thường sơn triệt ngược chữa các chứng sốt rét: Thường sơn 6g, Binh lang 2g, thảo quả 1g, cát căn 4g, nước 600ml. Sắc còn 200ml, chia 3 lần uống trong ngày. Theo kinh nghiệm hễ sốt rét nhiều rét ít thì người ta tăng liều cát căn lên tới 10g; ngược lại nếu rét nhiều sốt ít hơn, thì người ta tăng liều thảo quả lên tới 3-4g. Đơn thuốc này ít gây nôn.

   2. Thường sơn cam thảo thang - Chữa sốt rét và sốt thường: Thường sơn (rễ) 10g, cam thảo 3g, nước 600ml. Sắc còn 200ml. Chia 3 lần uống trong ngày. Đơn này dễ gây nôn.

   3. Cao thường sơn chữa sốt rét: Thường sơn (rễ) 12g, bình lang 12g, miết giáp 12g, ô mai 3 quả, táo đen 3 quả, cam thảo 3 nhát (miếng), sinh khương 3 miếng. Thêm nước vào sắc kỹ, lọc và cô đặc còn 3g. Người lớn ngày uống 1-2 lần, mỗi lần 3g. Toàn liều điều trị chừng 12-18g là khỏi. Không gây nôn.

Chú thích:

   Ngoài vị thường sơn nói trên đây, trong nhân dân ta và nhân dân Trung Quốc còn dùng nhiều vị khác thuộc cùng họ thực vật hay thuộc họ thực vật khác hẳn với tên thường sơn.

Xin kể sau đây để chú ý phân biệt và tránh nhầm lẫn:

   1. Cây thổ thường sơn - Hydrangea thunbergii sieb, hoặc Hydrangea aspera Don. Cùng thuộc họ Thường sơn (Saxifragaceae).

   Cây này chưa thấy ở Việt Nam. Người ta dùng lá. Trong lá có chất ngọt phellodulxin C10H14O5. Dùng cho thuốc dễ uống, làm lợi tiểu, trong bệnh đường tiện.

   2. Cây tử thường sơn (thường sơn tím) - Hydrangea sp. cùng họ, chưa thấy tài liệu nghiên cứu; cũng chưa thấy ở Việt Nam.

   3. Cây thường sơn Nhật Bản - Orixajaponica Thunb. thuộc họ Cam quít (Rutaceae). Cây này cũng chưa thấy ở Việt Nam. Chủ yếu người ta dùng rễ, nhưng cũng có khi dùng cả lá và thân.

   Trong rễ thường sơn Nhật Bản, người ta lấy được ancaloit gọi là orixin C18H23O6N, orixidin C15H13O4N, chất isoorixin và kokusagin C13H9NO6; trong lá có 0,01% tinh dầu, trong đó có camphen C10H16 và linalol.

   Rễ dùng chữa ho, sốt, gây nôn, sốt rét. Dùng ngoài đắp những chỗ bị trúng độc. Lá dùng sát lên mình trâu bò đễ chữa trừ ve, bọ.

   4. Hải châu thường sơn - Clerodendron trichotomum Thunb. Thuộc họ Cỏ roi ngựa (Verbenaceae); còn gọi là xú Ngô đồng (xem vị này). Người ta dùng rễ, lá sắc uống chữa sốt rét, cao huyết áp kết quả rõ rệt. Thân và lá sắc dùng tắm trâu bò khỏi bị ve, bọ.

   5. Bạch thường sơn - Mussaenda divaricata Hutch. Thuộc họ Cà phê (Rubiaceae). Cây này chưa thấy có trong nước ta, nhưng nhân dân một số nơi dùng cây bướm bạc hay bướm bướm - Mussaenda cambodiana Pierre mọc ở nước ta, cùng họ. Hoa có tác dụng thông tiểu tiện, chữa ho, hen, sốt rét.

   6. Sơn thường sơn (Thường sơn núi) - Berberis vulgaris L. thuộc họ Hoàng liên gai (Berberidaceae). Cây này chưa thấy ở nước ta. Hoạt chất là becberin. Cũng dùng chữa sốt rét.

   7. Hợp tác xã thuốc dân tộc Hà Nội dùng cây Phlogacanthus turgidus Nicholson họ Ôrô (Acanthaceae) với tên thường sơn. Cây này còn có tên khác là Meninia turgida Hook. Có tác giả lại xác định là cây dóng xanh Gendarussa ventricosa (Wall.) Nees. Chưa thấy nghiên cứu.

Nguồn: Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tác giả: Giáo sư Tiến sĩ khoa học ĐỖ TẤT LỢI



Xin vui lòng ghi rõ nguồn http://www.dotatloi.com khi phát hành lại thông tin.


Tuyên bố miễn trừ trách nhiệm:
Thông tin trên www.dotatloi.com chỉ phục vụ nghiên cứu học tập và mở rộng kiến thức. Không sử dụng làm căn cứ để tiến hành chẩn trị trên lâm sàng. Thông tin trên www.dotatloi.com có thể được trích dẫn, thu thập từ các ấn phẩm, các trang tin điện tử liên quan trong nước và ngoài nước. Nếu phát sinh vấn đề bản quyền, kính đề nghị phản hồi cho chúng tôi.

Viết bình luận

Để thuận tiện cho việc đăng tải, xin vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.
Chúng tôi mong muốn nhận được những bình luận theo hướng mở rộng hoặc bổ sung thông tin liên quan đến bài viết.
Chúng tôi sẽ khóa những bình luận có ngôn từ mang tính kích động hoặc bất nhã.

focus Thanh cao hoa vàng
10/03/2025 01:40 SA

- 黄花蒿. Còn gọi là thanh hao, thanh cao, thảo cao. Tên khoa học Artemissia annua L. Thuộc họ Cúc Asteriaceae (Compositae).

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu
Tên vị thuốc Mô tả
Đậu rựa - 刀豆. Còn gọi là đậu kiếm, đậu mèo leo, đao đậu tử. Tên khoa học Canavalia gladiata (Jacq) D. C. Thuộc họ Cánh bướm Fabaceae (Papilionaceae).
Dây chặc chìu - 毛果錫葉藤 (毛果锡叶藤). Còn gọi là dây chiều, u trặc chìu, tích diệp đằng. Tên khoa học Tetracera scandens (L.) Merr. (Tetracera sarmentosa Vakl.). Thuộc họ Sổ (Dilleniaceae).
Dây đau xương - 宽筋藤. Còn gọi là khoan cân đằng. Tên khoa học Tinospora sinensis Merr (Tinospora tomentosa Miers, Tinospora malabarica Miers, Menispermum malabaricum Lamk). Thuộc họ Tiết dê (Menispermaceae). Tên dây đau xương vì người ta dùng cây này để chữa bệnh đau xương. Khoan cân đằng là tiếng Trung Quốc cũng có nghĩa là làm cho xương cốt được khỏe.
Dây đòn gánh - 咀签. Còn gọi là đòn kẻ trộm, dây gân. Tên khoa học Gouania leptostachya DC. Thuộc họ Táo ta (Rhamnaceae).
Dây ký ninh - 千里找根. Còn gọi là thuốc sốt rét, dây thần thông, bảo cự hành, khua kao ho (Lào), bandaul pech (Campuchia), liane quinine (Pháp). Tên khoa học Tinospora crispa (L.) Miers., (Menispermum crispum L., Cocculus tuberculatus L., C. cispus DC.). Thuộc họ Tiết dê (Menispermaceae). Người ta dùng thân cây của cây thần thông, tươi hoặc khô. Đây không phải là cây canhkina và không có chất quinin mặc dù mang tên dây ký ninh. Chú ý đừng nhầm lẫn.
Dây thuốc cá - 毛魚藤 (毛鱼藤). Còn gọi là dây duốc cá, dây mật, dây cóc, dây cát, lầu tín, tuba root (Anh), derris (Pháp), touba. Tên khoa học Derris elliptica Benth., Derris tonkinensis Gagnep. Thuộc họ Cánh bướm Fabaceae (Papilionaceae). Dây duốc cá là những cây cho rễ dùng đánh bả cá. Vì những cây này chỉ độc đối với sâu bọ và động vật máu lạnh, không độc đối với người và súc vật nuôi trong nhà cho nên còn được dùng trong nông nghiệp để diệt trừ sâu bọ. Cây có ở Việt Nam.
Dây toàn - 白毛藤. Còn gọi là già căn, douce amère. Tên khoa học Solanum dulcamara L. (Solanum lyratum Thunb.). Thuộc họ Cà (Solanaceae).
Địa du - 地榆. Còn gọi là ngọc trát (Trung Quốc), sanguisorbe officinale, grande pimprenelle (Pháp), Pimpernel (Anh). Tên khoa học Sanguisorba officinalis L. Tên "địa du" vì "địa" là đất, "du" là cây du. Cây địa du lúc mới mọc lên, lá giống cây du, lan khắp trên mặt đất, nên đặt tên như vậy.
Địa liền - 山柰. Còn gọi là sơn nại, tam nại, thiền liền, sa khương, faux galanga. Tên khoa học Kaempferia galanga L., (Kaempferia rotunda Ridl.). Thuộc họ Gừng (Zingiberaceae). Sơn nại (Rhizoma Kaempferiae) là thân rễ thái mỏng phơi khô của cây địa liền. Tên địa liền vì lá mọc sát mặt đất.
Điều nhuộm - 紅木 (红木). Còn gọi là xiêm phung, cham pou, champuk shralok (Cămpuchia), som hu, som phu, kam tai, kam set (Lào), rocouyer-annato. Tên khoa học Bixa orellana L. Thuộc họ Điều nhuộm (Bixaceae).
Đỗ trọng - 杜仲. Tên khoa học Eucommia ulmoides Oliv. Thuộc họ Đỗ Trọng (Eucommiaceae). Đỗ trọng (Cortex Eucommiae) là vỏ phơi hay sấy khô của cây Đỗ trọng. Xưa kia vì có người họ Đỗ tên Trọng dùng vị thuốc này, do đó mà đặt tên.
Độc hoạt - 獨活 (独活). Trên thị trường, tên độc hoạt dùng để chỉ thân rễ và rễ của nhiều cây khác nhau. Sau đây là một số vị chính: (1) Xuyên độc hoạt: Radix Angelicae tuhuo là thân rễ và rễ phơi hay sấy khô của cây xuyên độc hoạt (Angelica laxiflora Diels) ở vùng Hồ Bắc, hoặc cây Angelica megaphylla Diels ở vùng Tứ Xuyên, đều thuộc họ Hoa tán Apiaceae (Umebelliferae); (2) Hương độc hoạt: Radix Angelicae pubescentis là rễ của cây mao đương quy (Angelica pubescen Maxim) thuộc họ Hoa tán Apiaceae (Umbelliferae); (3) Ngưu vĩ độc hoạt: Radix Heraclei hemsleyani là rễ phơi hay sấy khô của cây độc hoạt đuôi trâu. Ngưu vĩ độc hoạt (Heracleum hemsleyanum Michx) thuộc họ Hoa tán Apiaceae (Umbelliferae). Cùng với tên ngưu vĩ độc hoạt có nơi còn dùng rễ phơi khô của cây độc hoạt lông mềm, nhuyễn mao độc hoạt - Heracleum lanatum Michx. cùng họ; (4) Cửu nhỡn độc hoạt: Độc hoạt 9 mắt, (Rhizoma Araliae cordatae) còn gọi là thổ đương quy (trong Bản thảo thập di) hay cửu nhỡn độc hoạt (vùng Tứ Xuyên, Trung Quốc) là thân rễ phơi hay sấy khô của cây cửu nhỡn độc hoạt (Aralia cordata Thunb) thuộc họ Ngũ gia bì (Araliaceae).
Đơn buốt - 鬼针草. Còn gọi là đơn kim, quỷ trâm thảo, manh tràng thảo, tử tô hoang, cúc áo. Tên khoa học Bidens pilosa L.. Thuộc họ Cúc (Asteraceae).
Đơn châu chấu - 虎刺楤木. Còn gọi là cây cuồng, rau gai (Thái nguyên), độc lực (Hà tây), cẩm giảng (Bình gia, Lạng Sơn). Tên khoa học Aralia armata (Wall.) Seem (Panax armatum Wall.). Thuộc họ Ngũ gia bì (Araliaceae).
Đơn đỏ Còn gọi là bông trang đỏ, mẫu đơn, kam ron tea (Cămpuchia). Tên khoa học Ixora coccinea L. Thuộc họ Cà phê (Rubiaceae).
Đơn lá đỏ - 紅背桂 (红背桂). Còn gọi là đơn tướng quân, đơn tía, mặt quỉ, hồng bối quế hoa. Tên khoa học Excoecaria cochinchinesis Lour. (Excoecaria bicolor Hass., Excoecaria orientalis Pax. et Hoffm., Antidesma bicolor Hassk). Thuộc họ Thầu dầu (Euphorbiaceae).
Đơn răng cưa - 包疮叶. Còn gọi là đok ton, kok tap (Lào). Tên khoa học Maesa indica Wall (Boebotrys indica Roxb). Thuộc họ Đơn nem (Myrsinaceae).
Đơn trắng (hé mọ) Còn gọi là lấu, bời lời, bồ chát, cây men sứa. Tên khoa học Psychotria reevesii Wall. Thuộc họ Cà phê (Rubiaceae).
ĐỐI TÁC - LIÊN KẾT
[ Lên đầu trang ]