Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu

THUỐC LÁ - 煙草 (烟草)

Còn gọi là Nicotiana thnam (Cămphuchia), yên thảo (Trung Quốc), tabac (Pháp).

Tên khoa học Nicotinia tabacum Lin.

Thuộc họ Cà (Solanaceae).

THUỐC LÁ, 煙草, 烟草, Nicotiana thnam, yên thảo, tabac, Nicotinia tabacum Lin, họ Cà, Solanaceae

Thuốc lá - Nicotinia tabacum

A. MÔ TẢ CÂY

Cây thảo, sống hàng năm, phần gốc thân hóa gỗ ít nhiều. Thân mọc đứng, có nhiều lông, phân cành ở ngọn, các lá ở phía trên bé hơn, hình lưỡi mác. Phiến lá to có thể dài 60-75cm, rộng 30-50cm, không cuống, một mẩu lá phía dưới ôm vào thân.

Hoa nhiều, tập hợp thành chùy ở ngọn. Đài có lông, tràng màu trắng hay hồng hoặc tím nhạt. Quả nang có 2 ô, có đài tồn tại bọc ở ngoài, hạt bé, nhiều, màu đen: 1ml có thể chứa tới 6000 hạt.

Cùng loại với cây thuốc lá, ở nước ta còn trồng cây thuốc lào - Nicotinia rustia L. Thân thấp hơn, lá to và dày hơn.

B. PHÂN BỐ, THU HÁI VÀ CHẾ BIẾN

Cây thuốc lá vốn nguồn gốc ở châu Mỹ, nhưng được đưa về trồng ở nhiều nước trên thế giới: người ta ước tính mỗi năm toàn thế giới sản xuất khoảng 4 triệu tấn thuốc lá khô, trong đó 3/4 sản xuất ở châu Mỹ và các nước châu á. Những nước sản xuất nhiều thuốc lá trên thế giới có Mỹ (gần một triệu tấn/năm), Trung Quốc, Ấn Độ, Braxin, Nhật Bản.

Ở nước ta việc trồng thuốc lá chỉ mới được phát triển sau Cách mạng tháng Tám, vì trước đây hồi thuộc Pháp, việc trồng thuốc lá, thuốc lào bị hạn chế, phải xin phép. Thuốc lào thường chỉ trồng tập trung ở một số tỉnh như Hải Hưng (Vĩnh Bảo), Hải Phòng (Tiên  Lãng) ... Những năm gần đây thuốc lá đươc trồng ở các tỉnh Vĩnh Phú, Cao Bằng, Lạng Sơn, Hà Tây (Ba Vì), Gia Lai Công Tum, Đắc Lắc ...

Trồng thuốc lá bằng hạt. Trước hết phải gieo hạt. Khi cây con cao chừng 10-15cm mới đánh đi trồng ở nơi cố định. Khoảng cách giữa mỗi cây chừng 65cm (tỉ lệ nicotin càng cao nếu các cây cách xa nhau vừa đủ). Thời vụ gieo trồng thay đổi theo giống và điều kiện khí hậu từng vùng. Ở Vĩnh Phú người ta trồng vào tháng 12 (cho năng suất cao nhất), bắt đầu thu lá từ tháng 4, tháng 5: thu hái lá từ phía dưới lên, trung bình mỗi hecta cho khoảng 1 tấn lá khô/năm. Trong thu hoạch thuốc lá, công việc phơi sấy đóng vai trò quyết định chất lượng của thuốc lá. Có thể phơi nắng nhưng để chủ động người ta thường sấy. Do đó cùng với việc trồng thuốc lá, nhất thiết phải thiết kế lò  sấy.

Mặc dầu thuốc lá là một chất độc, nhưng thế giới hiện nay vẫn trồng thuốc lá chủ yếu để hút; một số rất ít dùng làm thuốc trừ sâu bệnh cho cây trồng, một số ít nữa dùng làm thuốc chữa bệnh.

C. THÀNH PHẦN HÓA HỌC

Thuốc lá đã phơi hay sấy khô còn chứa tới 20% nước; hàm lượng chất vô cơ cũng rất cao: 15 đến 20% trong đó chủ yếu là kali, canxi, photphát, nitrat.

Trong thuốc lá còn xanh, hàm lượng gluxit khá cao: tới 40% bao gồm chủ yếu là tinh bột (8-12%), đường tan được (2-4%) rồi đến pectin, xenluloza. Trong quá trình khô, lá bắt đầu ngả vàng, hàm lượng tinh bột và đưòng giảm xuống rất nhanh.

Các chất protein và lipit thường chỉ chiếm 12 và 5% trọng lượng khô.

IMG

Hàm lượng các axit hữu cơ cũng rất cao: 15-20% trong đó chủ yếu là axit malic, kèm theo axit xitric, các axit - phenol như axit cafeic, clorogenic (2-4% trọng lượng khô), axit quinic, và một axit đặc biệt: axit nicotinic (β pyridin cacbonic).

Trong thuốc lá còn có các hợp chất đa phenol: ngoài axit clorogenic, còn có các flavonozit: rutozit chiếm 1%, izoquexitrozit, quexetol, vết cumarin, scopoletol. Các hợp chất đa phenol đóng vai trò quan trọng trong màu sắc và hương vị thuốc lá.

Thuốc lá còn chứa một ít tinh dầu (linalola, bocneola), các hợp chất kiềm bay hơi (pyridin, N - metyl pyrrolidin), nhiều men (gluxidaza, oxydaza, catalaza).

Người ta cho hoạt chất chủ yếu của thuốc lá, thuốc lào là chất nicotin. Hàm lượng nicotin thay đổi từ 2 đến 10%, thuốc lào có thể chứa tới 16% nicotin.

Nicotin là một ancaloit được chiết ở thuốc lá từ năm 1828. Đây là một chất kiềm không chứa oxy, công thức thô là C10H14N2 với một nhân là pyridin và một nhân là N-metyl-pyrolidin. Nicotin là một chất lỏng sánh, mùi hắc, vị nóng, cay. Khi tinh khiết, không có màu, nhưng ra ánh sáng và không khí ngả màu nâu. Nicotin tan trong nước, rất tan trong các dung môi hữu cơ. Nicotin là một ancaloit bay hơi mạnh, khi tiếp xúc với axit clohydric cho khói trắng.

Bên cạnh nicotin người ta còn thấy nornicotin (có nhiều trong một số loài thuốc lá trồng), anabasin (vì lần đầu tiên được chiết từ cây thuộc chi Anabasis) họ Rau muối (Chonopodiaceae). Anabasin là đồng phân của nicotin. Ngoài ra người ta còn thấy một ít chất như nicotelin, nicotyrin, myosmin ...

Thành phần thuốc lá thay đổi nhiều trong quá trình phơi sấy và chế biến. Thường bao giờ trong thuốc lá phơi sấy hay chế biến, người ta nhận thấy:

   - Tinh bột và đường hầu như giảm hoàn toàn.

   - Axit malic giảm.

   - Các protit thoái hóa và xuất hiện các dạng hợp chất tan như axit amin, asparagin.

   - Hàm lượng nicotin có thể bị giảm, ngược lại hàm lượng axit nicotinic có thể tăng lên, hàm lượng axit clorogenic cũng giảm xuống.

   - Các hợp chất đa phenol bị ôxy hóa làm cho thuốc lá chuyển màu nâu.

   - Xuất hiện các axit béo tự do, các ancol và este thơm.

D. TÁC DỤNG DƯỢC LÝ

Thuốc lá là một cây độc, nhất là những lá già, có hàm lượng nicotin cao.

Người ta đã thấy người lớn đã chết do đã dùng 15 đến 20 gam thuốc lá dưới dạng hãm để thụt. Trẻ con chỉ cần vài gam cũng đủ chết.

Một số con vật nuôi trong nhà cũng rất nhậy cảm với nicotin nhưng người ta thấy một số con vật nhai lại có thể ăn những cây thuốc lá non mà không bị ngộ độc.

Nicotin là một chất độc mạnh hơn: liều chết cho một người lớn là 0,06gam.

Gần đây, những công trình nghiên cứu cho biết thuốc lá đóng vai trò làm tăng những bệnh tim mạch, và một số dạng ung thư. Thống kê cho biết số người hút thuốc lá bị chết do ung thư phổi cao hơn là số người không hút. Nhựa của khói thuốc lá bôi lên da chuột có thể gây ung thư da. Cho nên gần đây người ta đang tìm cách hạn chế sự độc hại của thuốc lá bằng vận động không hút thuốc lá, hoặc hút thuốc lá đã loại bớt nicotin, hay hút thuốc lá có những đầu lọc bớt nicotin.

E. CÔNG DỤNG VÀ LIỀU DÙNG

Mặc dầu biết hút thuốc lá là một chất độc, nhưng việc tiêu thụ thuốc lá trên thế giới ngày càng tăng.

Người ta đã ước tính bình quân một đầu người, một năm ở Thụy Sĩ dùng tới 5kg thuốc lá, tại Mỹ mỗi người mỗi năm tiêu thụ 4,8kg, tại Pháp 2,3kg.

Hiện nay thuốc lá, thuốc lào ít dùng làm thuốc đối với người: trong nhân dân, người ta dùng thuốc lào, thuốc lá để đắp vào những nơi đứt tay chân, chảy máu để cầm máu. Còn dùng chữa rắn rết côn trùng cắn.

Thuốc lá hay được dùng chữa bệnh cho gia súc và phòng trừ sâu bệnh cho cây trồng (bảo vệ thực vật).

Đối với cây trồng người ta dùng bột vụn thuốc lá (dư phẩm của công nghiệp thuốc lá), dịch chiết thuốc lá hay dư phẩm công nghiệp thuốc lá có chứa mỗi lít từ 10 đến 20g sunfat nicotin. Khi dùng người ta pha loãng thành dung dịch chứa 1% nicotin rồi phun lên cây có sâu bọ. Nicotin không độc với cây trồng, nhưng sâu bọ hoặc tiếp xúc, hoặc hút nước có nicotin hoặc hít thở hơi thuốc sẽ bị ngộ độc. Tuy nhiên vì đây là chất độc, cho nên việc sử dụng phải theo đúng những quy định để tránh ngộ độc cho người sử dụng.

Đối với súc vật người ta dùng thuốc lá thuốc lào pha nước để chữa ghẻ, chấy rận, bọ chó: dùng dung dịch chứa 1%nicotin. Tránh bôi lên những nơi da bị sây sát để tránh ngộ độc.

Đôi khi người ta dùng trị giun sán của bò, dê với liều 5-6ml đối với bò, 1-2ml đối với dê, cao thuốc lá có chứa 40% nicotin.

Nguồn: Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tác giả: Giáo sư Tiến sĩ khoa học ĐỖ TẤT LỢI



Xin vui lòng ghi rõ nguồn http://www.dotatloi.com khi phát hành lại thông tin.


Tuyên bố miễn trừ trách nhiệm:
Thông tin trên www.dotatloi.com chỉ phục vụ nghiên cứu học tập và mở rộng kiến thức. Không sử dụng làm căn cứ để tiến hành chẩn trị trên lâm sàng. Thông tin trên www.dotatloi.com có thể được trích dẫn, thu thập từ các ấn phẩm, các trang tin điện tử liên quan trong nước và ngoài nước. Nếu phát sinh vấn đề bản quyền, kính đề nghị phản hồi cho chúng tôi.

Viết bình luận

Để thuận tiện cho việc đăng tải, xin vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.
Chúng tôi mong muốn nhận được những bình luận theo hướng mở rộng hoặc bổ sung thông tin liên quan đến bài viết.
Chúng tôi sẽ khóa những bình luận có ngôn từ mang tính kích động hoặc bất nhã.

focus Ô đầu Việt Nam
02/06/2025 01:31 SA

- 越南烏頭 (越南乌头). Còn gọi là củ gấu tàu, củ ấu tàu (đừng nhầm với vị hương phụ có tên là củ gấu, xem vị này), cố y (Mèo - Nghĩa Lộ). Tên khoa học Aconitum fortunei Hemsl, (A. conitum sinense Sieb., Aconitum kusnezoffii Reichb var bodinieri Fin. et gagnep). Th...

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu
Tên vị thuốc Mô tả
Niệt gió - 了哥王. Còn gọi là gió niệt, gió cánh, gió miết, gió chuột, liễu kha vương, lĩnh nam nguyên hoa, cửu tin thảo, sơn miên bì, địa ba ma, độc ngư đằng. Tên khoa học Wikstroemia indica C. A. Mey. (Wikstroemia viridiflora Meissn, Daphne cannabina Lour.). Thuộc họ Trầm (Thymeleaceae).
Núc nác - 千張紙 (千张纸). Còn gọi là so đo thuyền, lin may, mộc hồ điệp, ung ca (Lào-Viêntian), k'nốc (Buônmêthuột), nam hoàng bá, hoàng bá nam, thiêu tầng chỉ, bạch ngọc nhi, thiên trương chỉ (Vân Nam) triểu giản (Quảng Tây). Tên khoa học Oroxylum indicum (L.), Vent (Bignonia indica L., Calosanthes indica Blume). Thuộc họ Chùm ớt (Bignoniaceae). Cây núc nác cung cấp cho ta hai vị thuốc: (1) Vỏ núc nác (Cortex Oroxyli) là vỏ thân phơi hay sấy khô của cây núc nác; (2) Hạt núc nác (Semen Oroxyli) là hạt phơi hay sấy khô của cây núc nác. Hạt núc nác làm thuốc có tên mộc hồ điệp (mộc là gỗ, cây; hồ điệp là con bướm) vì hạt trông giống như con bướm bằng gỗ.
Ô đầu - Phụ tử - 烏頭 - 附子 (乌头 - 附子). Trong đông y thường coi phụ tử là một vị thuốc bổ "dương" do đó có câu (sâm, nhung, quế, phụ) nhưng có nhiều người lại rất sợ phụ tử vì coi đó là một vị thuốc rất độc. Vậy sự thật như thế nào? Ô đầu và phụ tử là hai vị thuốc khác nhau hay là cùng một vị? Do một cây hay do hai cây khác nhau? Cần nắm vững ngay rằng ô đầu, phụ tử đều do một cây mà ra, nhưng do cách chế biến khác nhau mà ô đầu rất độc, thường chỉ dùng để xoa bóp bên ngoài, còn phụ tử ít độc hơn có thể dùng uống trong với liều khá cao.
Ô đầu và phụ tử - 烏頭 附子 (乌头 附子). Còn gọi là xuyên ô, thảo ô. Tên khoa học Aconitum sinense Paxt. Thuộc họ Mao lương (Ranuneulaceae). Ô đầu và phụ tử để do rễ củ của một cây cung cấp, nhưng do cách chế biến khác nhau, nên được hai vị thuốc khác hẳn nhau: (1). Ô đầu (Radix Aconiti) là rễ củ mẹ của cây ô đầu - Acontum sinense, đào về, rửa sạch phơi hay sấy khô. Vị thuốc này các vị lương y đều thống nhất coi là vị thuốc rấr độc. Hiện được xếp vào loại thuốc rất độc bảng A. (2). Phụ tử là rễ củ con của cây ô đầu nói trên, nhưng đem về chế biến rồi mới dùng. Phụ tử lại chia ra diêm phụ, hắc phụ và bạch phụ củ, bạch phụ phiếm. Các vị lương y có người coi là độc, nhưng có vị coi là không độc vì có thể dùng hàng gam đến 40-50g hay hơn nữa.
Ô đầu Việt Nam - 越南烏頭 (越南乌头). Còn gọi là củ gấu tàu, củ ấu tàu (đừng nhầm với vị hương phụ có tên là củ gấu, xem vị này), cố y (Mèo - Nghĩa Lộ). Tên khoa học Aconitum fortunei Hemsl, (A. conitum sinense Sieb., Aconitum kusnezoffii Reichb var bodinieri Fin. et gagnep). Thuộc họ Mao lương (Ranunculaceae). Cây này trước đây được Dr Daels giám đốc vườn thực vật Berlin Dahlem xác định là Aconitum semigaleatum.
Ô dược - 烏葯 (乌药). Còn gọi là cây dầu đắng, ô dược nam. Tên khoa học Lindera myrrha (Lour.) Merr. (Laurus myrrha Lour., Litsea trinervia Pers., Tetratthersa trinervia Spreng., Daphnidium myrrha Nees.). Thuộc họ Long não (Lauraceae). Ô dược (Radix Linderae) là rễ phơi hay sấy khô của cây dầu đắng hay ô dược nam.
Ô rô - 大薊 (大蓟). Còn gọi là đại kế, thích kế, thiết thích ngãi, dã thích thái, thích khải tử, hổ kế, mã kế, dã hồng hoa, sơn ngưu bàng, hê hạng thảo. Tên khoa học Cncus japonicus. (DC.) Maxim (Cirsium japonicum DC.). Thuộc họ Cúc (Compositae). Đại kế (Herba et Radix Cirsii japonici) là toàn cây ô rô phơi hay sấy khô, bao gồm thân, cành, lá, cụm hoa và rễ.
Ớt - 辣椒. Còn gọi là ớt tàu ớt chỉ thiên, ớt chỉ địa, lạt tiêu. Tên khoa học Capsicum annuum L. Thuộc họ Cà (Solanaceae). Ớt (Fructus Capsici) là quả chín phơi khô của cây ớt Capsicum annuum L. và những cây ớt khác. Ta còn dùng cả là tươi (Folium Capsici). Tên khoa học do chữ Capsa là túi, ý nói quả ớt giống cái túi, annnuum có nghĩa là mọc hàng năm.
Phá cố chỉ - 破故紙 (破故纸). Còn gọi là phá cốt tử, hoặc cố tử, bổ cốt chi, hạt đậu miêu. Tên khoa học Psoralea coryliforlia L. Thuộc họ Cánh bướm Fabaceae (Papilionsceae). Phá cố chỉ (Semen Psoraleae) hay bổ cốt chi là hạt phơi khô của cây phá cố chỉ hay cây đậu miêu. Cốt là xương, chỉ là mỡ vì nhân dân coi vị thuốc có tính bổ xương tủy.
Phan tả diệp - 番瀉葉 (番写叶). Còn gọi là hiệp diệp phan tả diệp, tiêm diệp, phan tả diệp, séné. Tên khoa học Cassia angustifolia Vahl và Cassia acutifolia Delile. Thuộc họ Vang (Caesalpiniaceae). Phan tả diệp (Folium sennae) là lá phơi hay sấy khô của cây phan tả diệp lá hẹp Cassia angustifolia Vahl hay cây phan tả diệp lá nhọm Cassia acutifolia Delile, đều thuộc họ Vang (Caesalpiniaceae). Phan tả diệp là một vị thuốc thường dùng trong cả đông y và tây y, và là một vị thuốc phải nhập. Tả diệp = lá gây đi ỉa lỏng, mọc ở nước Phiên (một nước, ở biên giới Trung Quốc xưa kia) đọc chệch là Phan.
Phật thủ - 佛手. Còn gọi là phật thủ phiến, phật thủ cam. Tên khoa học Citrus medica L.var. sarcodactylus Sw. (Citrus medica L. var. digitata Riss.). Thuộc họ Cam quít (Rutaceae). Ta dùng quả phơi khô (Fructus Citri sarcodactyli) của cây phật thủ.
Phèn đen - 龍眼睛 (龙眼睛). Còn gọi là nỗ. Tên khoa học Phyllanthus reticulatus Poir. Thuộc họ Thầu dầu (Euphorbiaceae).
Phòng kỷ - 粉防己, 廣防己 (广防己), 木防己. Còn gọi là hán phòng kỷ, quảng phòng kỷ, mộc phòng kỷ, phấn phòng kỷ, hán trung phòng kỷ. Phòng có nghĩa là phòng ngừa, kỷ là cho mình; ý nói là vị thuốc có tác dụng phòng ngừa tật bệnh cho mình. Phòng kỷ là tên dùng để chỉ nhiều vị thuốc, nguồn gốc thực vật khác hẳn nhau. (1) Phấn phòng kỷ hay phòng kỷ: Radix Stephaniae là rễ phơi hay sấy khô của cấy phấn phòng kỷ (Stephania tetrandra S. Moore) thuộc họ Tiết dê (Menispermaceae). (2) Quảng phòng kỷ hay mộc phòng kỷ, đẳng phòng kỷ, phòng kỷ (Quảng Tây): Là rễ phơi hay sấy khô của cây quảng phòng kỷ (Aristolochia westlandi Hemsl.) thuộc họ Mộc thông (Aristolochiaceae). (3) Hán trung phòng kỷ: Radix Aristolochiae heterophyllae là rễ phơi hay sấy khô của cây hán trung phòng kỷ hay thành mộc hương (Aristolochia heterophylla Hemsl.) cùng họ Mộc thông (Aristolochiaceae). (4) Mộc phòng kỷ: Là rễ phơi hay sấy khô của cây mộc phòng kỷ (Cocculus trilobus DC.) thuộc họ Tiết dê (Menispermaceae).
Phòng phong - 防風 (防风). Trên thực tế, phòng phong không phải là một vị thuốc, mà là nhiều vị do nhiều cây khác nhau cung cấp. Chỉ kể một số cây chính: (1) Xuyên phòng phong - (Radix Ligustici brachylobi) là rễ khô của cây xuyên phòng phong (Ligusticum brachylobum Franch) thuộc họ Hoa tán Apiaceae(Umbelliferae); (2) Phòng phong hay thiên phòng phong - (Radix Ledebouriellae seseloidis) còn gọi là đông phòng phong hay bàng phong là rễ khô của cây phòng phong (Ledebouriella seseloides Wolff.) cùng thuộc họ Hoa tán Apiaceae (Umbelliferae); (3) Vân phòng phong còn gọi là trúc diệp phòng phong (Radix Seseli) là rễ khô của cây phòng phong Vân Nam (Seseli delavayi Franch.) thuộc họ Hoa tán (Umbelliferae). Vân phòng phong còn do cây phòng phong lá thông (tùng diệp phòng phong-Seseli yunnanense Franch) cùng họ cung cấp nữa. Ngoài những cây chính kể trên, có nhiều nơi còn dùng rễ những cây Carum carvi L., tiền hồ hoa trắng (Peucedanum praeruptorum Dunn), Siler divaricatum Benth. et Hook., pimpinella candolleana Wright et Arn, v.v... đều thuộc họ Hoa tán.
Phù dung - 木芙蓉. Còn gọi là mộc liên, địa phù dung. Tên khoa học Hibiscus mutabilis L. (Hibiscus sinensis Mill). Thuộc họ Bông (Malvaceae). Ta thường dùng hoa và lá tươi hoặc khô của cây phù dung để làm thuốc.
Phục linh - 茯苓. Còn có tên là bạch phục linh, phục thần. Tên khoa học Poria cocos Wolf. (Pachyma hoelen Rumph.). Thuộc họ Nấm lỗ (Polyporaceae).
Phượng nhỡn thảo - 臭椿. Còn gọi là Faux vernis du Japon, Ailante. Tên khoa học Ailantus glandulosa Desf. Thuộc họ Thanh thất (Simarubaceae).
Preah phneou Còn gọi là Chiều liêu, preas phnau, pras phneou (Campuchia). Tên khoa học Terminalia nigrovenulosa Pierre. Thuộc họ Bàng (Combretaceae). Preah phneou là tên Campuchia của một loài chiều liêu. Vì tên này được giới thiệu dùng trong thuốc dầu tiên cho nên cứ giữ tên này.
ĐỐI TÁC - LIÊN KẾT
[ Lên đầu trang ]