Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu

THẠCH QUYẾT MINH - 石決明

Còn gọi là cửa khổng, cửa khổng loa, ốc khổng, bào ngư.

Tên khoa học Haliotis sp.

Thuộc họ Haliotidae, lớp Phúc túc (Gastropoda), ngành Nhuyễn thể (Mollusca).

THẠCH QUYẾT MINH, 石決明, cửa khổng, cửa khổng loa, ốc khổng, bào ngư, Haliotis sp, họ Haliotidae, lớp Phúc túc, Gastropoda, ngành Nhuyễn thể, Mollusca

Thạch quyết minh - Concha Haliotidis

Thạch quyết minh (Concha Haliotidis) là vỏ phơi khô của nhiều loài bào ngư Haliotis diversicolor Reeve (cửa khổng bào), Haliotidis gigantea discus Reeve (bào đại não) và Haliotidis ovina Gmelin (dương bào).

Tên là thạch quyết minh vì là một vị thuốc giống đá (thạch) lại có tính chất làm tan màng, sáng mắt.

Còn cửu khổng hay ốc khổng vì ở mép vỏ của bào ngư có một hàng lỗ nhỏ từ 7 đến 13 lỗ (thường là 9 lỗ), tức là chỗ để không khí ra vào cho con bào ngư thở.

A. MÔ TẢ CON VẬT

Bào ngư là một loại ốc có một vỏ cứng như vỏ con sò, nhưng dẹt hơn, ở mép có 7 đến 13 lỗ nhỏ để không khí ra vào. Khi vỏ con bào ngư bị sinh vật khác bám kín trên hàng lỗ đó thì con vật có thể chết ngạt.

Lớp vỏ ngoài nhám, có màu nâu sẫm, mặt trong có lớp sà cừ lóng lánh. Chân bào ngư là một khối thịt dính liền với thân, nằm xung quanh mép vỏ. Muốn bò đi, khối thịt đó phải co giãn để di chuyển thân mình. Khi bị ta bắt, thì khối thịt đó rút vào trong vỏ.

Chân bào ngư bao giờ cũng bám chắc vào đá, nhờ đó mà vùng bào ngư sống tuy luôn luôn có sóng lớn vỗ vào đá, nhưng bào ngư vẫn sống bình thường. Thức ăn chính của bào ngư là rong rêu bám trên đá.

B. PHÂN BỐ, THU HÁI VÀ CHẾ BIẾN

Bào ngư thường sống ở các vùng hải đảo hay ven biển có rạn đá ngầm, độ mặn của nước biển cao.

Bào ngư sống ở độ nước sâu từ 2 đến 12m, thường lúc còn nhỏ ở chỗ cạn, khi lớn lên mới ở độ nước sâu hơn. Đáy nơi đó phải có nhiều đá sỏi, trên mặt đá có phủ một lớp bùn mịn.

Tại miền bắc nước ta, bào ngư được khai thác tại các đảo Bạch Long Vĩ, Cô Tô, Cát Bà và chân núi đèo ngang (Quảng Bình), nhiều nhất là Bạch Long Vĩ và Cô Tô. Khả năng có thể thu hoạch tới 47 tấn (Bạch Long Vĩ).

Hiện nay người ta còn bắt bào ngư sống tự nhiên, nhưng gần đây có nơi đã bắt đầu nuôi để bảo đảm nguồn cung cấp thường xuyên.

Mùa sinh đẻ ở miền bắc nước ta vào tháng 1-2; mùa bắt bào ngư vào tháng 7-10 là thời kỳ nước ấm dễ lặn, và cũng là lúc bào ngư béo nhất.

Khi bắt về, rửa sạch đất cát, rêu rong bám vào, sau đó rửa bằng nước muối pha loãng, cuối cùng cậy vỏ riêng phơi khô dùng làm thuốc; còn ruột đem nấu chín phơi khô bán riêng làm món ăn rất quý.

Có nơi, bào ngư bắt về đem rửa sạch, rồi cho nấu chín mới bóc lấy vỏ và ruột; vỏ sau khi lấy được phải đem rửa lại cho sạch chất muối rồi mới phơi khô. Phương pháp cạy bào ngư tươi tuy có khó khăn hơn nấu chín rồi mới cạy, nhưng vỏ có màu sắc óng ánh, phẩm chất tốt hơn.

Khi dùng vỏ làm thuốc, có khi người ta dùng sống: Rửa sạch, phơi khô, tán nhỏ, có khi người ta nung lên rồi mới tán nhỏ để dùng.

C. THÀNH PHẦN HÓA HỌC

Trong vỏ có các chất vô cơ, chủ yếu là canxi cacbonat, muối canxi khác và các chất hữu cơ; nhưng sau khi nung, chỉ còn chất vô cơ.

Trong thịt (bào ngư) có 73% nước, 24,58% protit, 0,44% chất béo, 1,98% tro.

D. CÔNG DỤNG VÀ LIỀU DÙNG

Theo tài liệu cổ: Thạch quyết minh có vị mặn, tính bình, vào 2 kinh Can và Phế. Có tác dụng bình can, tiềm dương, trừ nhiệt sáng mắt, thông lâm. Dùng chữa đầu choáng mắt hoa, xương đau nhức, thong manh mờ mắt.

Hiện nay, thạch quyết minh là một vị thuốc được dùng trong phạm vi nhân dân làm thuốc chữa thong manh, thị lực kém, có tác dụng làm tan màng, sáng mắt.

Còn được dùng làm thuốc chữa bệnh đau dạ dày thừa nước chua, cầm máu.

Liều dùng: Ngày uống 3-6g dưới dạng bột; có khi dùng dưới dạng thuốc sắc với liều 15-30g.

Thịt bào ngư là một loại hải sản quý, mùi vị thơm ngon, nhiều chất dinh dưỡng. Dùng trong nước và xuất khẩu.

Đơn thuốc có thạch quyết minh:

   - Chữa thong manh, quáng gà: Thạch quyết minh cạo sạch vỏ đen ngoài, tán nhỏ và thủy phi 10g. Dùng gan lợn hay gan dê bổ đôi, cho thuốc vào. Đun sôi chín, để hơi xông vào mắt. Khi đã nguội, ăn cả gan, uống cả nước. Mỗi ngày 1 lần (đơn thuốc kinh nghiệm trong nhân dân).

   - Đau mắt ra nắng bị chói: Thạch quyết minh, cúc hoa, cam thảo mỗi vị 4g. Sắc với 200g nước, để nguội, uống hàng ngày.

Nguồn: Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tác giả: Giáo sư Tiến sĩ khoa học ĐỖ TẤT LỢI



Xin vui lòng ghi rõ nguồn http://www.dotatloi.com khi phát hành lại thông tin.


Tuyên bố miễn trừ trách nhiệm:
Thông tin trên www.dotatloi.com chỉ phục vụ nghiên cứu học tập và mở rộng kiến thức. Không sử dụng làm căn cứ để tiến hành chẩn trị trên lâm sàng. Thông tin trên www.dotatloi.com có thể được trích dẫn, thu thập từ các ấn phẩm, các trang tin điện tử liên quan trong nước và ngoài nước. Nếu phát sinh vấn đề bản quyền, kính đề nghị phản hồi cho chúng tôi.

Viết bình luận

Để thuận tiện cho việc đăng tải, xin vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.
Chúng tôi mong muốn nhận được những bình luận theo hướng mở rộng hoặc bổ sung thông tin liên quan đến bài viết.
Chúng tôi sẽ khóa những bình luận có ngôn từ mang tính kích động hoặc bất nhã.

focus Mướp đắng
14/04/2025 01:59 SA

- 苦瓜. Còn gọi là khổ qua, cẩm lệ chi, lại bồ đào, hồng cô nương, lương qua, mướp mủ, chua hao (Mường-Thanh Hóa). Tên khoa học Momordica charantia L. (Momordica balsamina Desc., Cucumis africanus Lindl.). Thuộc họ Bầu bí (Cucurbitaceae).

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu
Tên vị thuốc Mô tả
Vạn niên thanh - 萬年青 (万年青). Còn gọi là thiên niên vận, đông bất điêu thảo, cửu tiết liên. Tên khoa học Rhodea japonica Roth. Thuộc họ Hành tỏi (Liliaceae). Cần chú ý ngay rằng tên vạn niên thanh ở nước ta thường dùng để gọi nhiều cây khác nhau. Cây vạn niên thanh ta trông làm cảnh là cây Aglaonema siamense Engl, thuộc họ Ráy (Araceae). Còn cây vạn niên thanh giới thiệu ở đây thuộc họ Hành tỏi, hiện chúng tôi chưa thấy trồng ở nước ta, nhưng giới thiệu ở đây để tránh nhầm lẫn.
Vạn niên thanh - 萬年青 (万年青). Còn gọi là co vo dinh (Thổ), han phan (Lào), kom ponh (Cămpuchia). Tên khoa học Aglaonema siamense Engl. Thuộc họ Ráy (Araceae).
Vạn tuế - 蘇鐵 (苏铁). Còn gọi là thiết thụ, phong mao tùng, phong mao tiêu. Tên khoa học Cycas revoluta Thunb. Thuộc họ Tuế (Cycadaceae).
Vàng đằng Còn gọi là dây đằng giang, hoàng đằng, hoàng đằng lá trắng, dây khai, vàng đắng. Tên khoa học Coscinium usitatum Pierre. Thuộc họ Tiết dê (Menispermaceae).
Viễn chí - 遠志 (远志). Còn gọi là tiểu thảo, nam viễn chí. Tên khoa học Polygala sp. Thuộc họ Viễn chí (Polygalaceae). Viễn chí là rễ khô của cây viễn chí lá nhỏ (Polygala tenuifolia Willd.) hoặc cây viễn chí Xibêri (Polygala sibirica L.) đều thuộc họ Viễn chí (Polygalaceae). Chữ Polygala do chữ Polys là nhiều, gala là sữa vì bò ăn cây này có nhiều sữa. Tenuifolia = lá nhỏ. Tên viễn chí là do người xưa cho rằng uống vị thuốc này làm cho người ta bền trí nhớ lâu. Ở nước ta theo các tài liệu, có nhiều cây thuộc chi Polygala.
Vỏ lựu - 石榴皮. Tức là vỏ cây quả cây thạch lựu Pericarpium granati (đã nói ở trên - mục thuốc trị giun sán). Trong vỏ quả lựu chứa chừng 28% chất tanin và chất màu. Các chất này có tính chất làm săn da và sát khuẩn mạnh.
Vối - 水榕, 水翁. Tên khoa học Cleistocalyx opercultus (Roxb). Merr et Perry (Eugenia operculata Roxb., Syzygium nervosum DC.). Thuộc họ Sim (Myrtaceae).
Vọng cách - 傘序臭黃荊 (伞序臭黄荆). Còn gọi là bọng cách, cách. Tên khoa học Premna integrifolia L. (Gumira littorea Rumph.). Thuộc họ Cỏ roi ngựa (Verbenaceae).
Vọng giang nam - 望江南. Còn gọi là cốt khí muồng, dương giác đậu, giang nam đậu, thạch quyết minh, sơn lục đậu, dã biển đậu, muồng hòa (miền Nam), muống lá khế. Tên khoa học Cassia occidentalsi L. Thuộc họ Vang (Caesalpiiaceae).
Vông vang - 黄葵. Còn gọi là bông vang, ambrette, ketmiemusquée. Tên khoa học Hibiscus abelmoschus L. (Abelmoschus moschatus Moench.). Thuộc họ Bông (Malvaceae).
Vuốt hùm - 南蛇竻. Còn có tên là móc mèo, móc diều, trầu sa lực. Tên khoa học Caesalpinia minax Hance. Thuộc họ Vang (Caesalpiniaceae).
Xạ can - 射干. Còn gọi là cây rẻ quạt, la cho (Lang-biang), Iris tigré. Tên khoa học Belamcanda sinensis (L) DC. (Pardanthus sinensis Ker., Ixia sinensis Murr.). Thuộc họ Lay ơn (Iridaceae). Xạ can (Rhizoma Belamcandae) là thân rễ phơi hay sấy khô của cây rẻ quạt.
Xích thược - 赤芍. Xích thược Radix Paeonae rubrae là rễ phơi hay sấy khô của 3 loài thược dược: Thược dược (Paeonia lactiflora Pall.); Thảo thược dược (Paeonia obovata Maxim.); Xuyên xích thược (Paeonia veichii Lynch). Tất cả xích thược đều do cây mọc hoang cung cấp. Vào các tháng 3-5 hay các tháng 5-10 đào về, trừ bỏ thân rễ và rễ nhỏ, chia thành từng rễ to nhỏ riêng biệt, rửa sạch đất cát; phơi khô là được.
Xoài - 杧果. Còn gọi là muỗm, swai (Cămpuchia), makmouang (Viêntian), manguier. Tên khoa học Mangifera indica L. Thuộc họ Đào lộn hột (Anacardiaceae).
Xoan Còn gọi là sầu đâu, xoan trắng, xuyên luyện, khổ luyện, đốc hiên, sđâu (Cămpuchia), lilas du Jappon, lilas des Indes, laurier grec, faux sycomore. Tên khoa học Melia azedarach L. Thuộc họ Xoan (Meliaceae). Ta dùng vỏ thân, vỏ cành to và vỏ rễ phơi khô hay sấy khô của cây xoan - Cortex Meliae. Vỏ rễ tốt hơn.
Xoan nhừ - 南酸棗 (南酸枣). Còn gọi là xoan trà, nhừ, xoan rừng, lát xoan, xuyên cóc, nam toan táo (Trung Quốc). Tên khoa học Choerospondias axillaris (Roxb.) Burtt et Hill (Spondias axillaris Roxb.). Thuộc họ đào lộn hột (Anaardiaceae).
Xương bồ - 菖蒲. Còn gọi là thạch xương bồ, thuỷ xương bồ. Tên khoa học Acorus gramineus Soland: Acorus calamus L. Thuộc họ Ráy (Araceae). Thạch xương bồ (Rhizoma Acoricalami) là thân rễ phơi khô của cây thạch xương bồ Acorus gramineus Soland. Thuỷ xương bồ (Rhizoma Acoricalami) là thân rễ phơi khô của cây thuỷ xương bồ Acorus calamus L. Xương là phồn thịnh, bồ là một thứ cỏ; xương bồ là một thứ cỏ bồ mọc chi chít.
Xương khô - 綠玉樹 (绿玉树). Còn gọi là lục ngọc thụ, quang côn thụ, thanh san hô, san hô xanh, cành giao. Tên khoa học Euphorbia tirucalli L. (E. viminalis Mill. E. rhipsaloides Lem.). Thuộc họ Thầu dầu (Euphorbiaceae).
ĐỐI TÁC - LIÊN KẾT
[ Lên đầu trang ]