Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu

TÊ GIÁC - 犀角

Còn gọi là tê ngưu giác, hương tê giác.

Tên khoa học Rhinoceros unicornis L. và Rhinoceros sondaicus Desmarest.

Thuộc họ Tê giác (Rhinocerotidae).

TÊ GIÁC, 犀角, ngưu giác, hương tê giác, Rhinoceros unicornis L., Rhinoceros sondaicus Desmarest, họ Tê giác, Rhinocerotidae

Tê giác một sừng - Rhinocerus unicornis

TÊ GIÁC, 犀角, ngưu giác, hương tê giác, Rhinoceros unicornis L., Rhinoceros sondaicus Desmarest, họ Tê giác, Rhinocerotidae

Tê giác hai sừng - Rhinoceros bicornis

Tê giác (Cornu Rihinoceri) là sừng của nhiều loại tê giác như tê giác Ấn Độ - Rihinoceros unicornis L., tê giác nhỏ một sừng - Rhinoceros sondaicus Desmarest, tê giác Inđônêxia Rhinoceros sumatrensis Cuvier, tê giác hai sừng hay hắc tê - Rhicoceros bicornis L. và tê giác hai sừng loại trắng - Rhinoceros simus Cottoni.

Tại thị trường, người ta còn phân biệt ra tê giác châu Á hay tê ngưu giác - Cornu Rhinoceri asiatici và tê giác châu Phi hay Quảng giác Coronu Rhinoceri africani.

A. MÔ TẢ TÊ GIÁC

Tê giác nhỏ một sừng - Rhinoceros sondaicus Desmarest là một con vật to thô, con đực cao từ vai xuống khoảng 1,7m, con cái khoảng 1,6m. Thân dài 3,6m, nặng trên 1.000kg, có một sừng trên mũi dài 25cm, có khi tới 39cm. Sừng đôi khi thiếu hẳn ở con cái. Da nhẵn không sùi mấu, biểu bì có rãnh nhỏ chia làm nhiều đĩa nhỏ nhiều cạnh. Bề mặt thân chia làm nhiều mảnh giáp với nhau bởi nhiều nếp; nếp trước và sau vai cũng như nếp trước đùi kéo dài qua lưng. Nếp gáy tương đối kém phát triển. Màu da xám thẫm toàn thân.

Tê giác Ấn Độ - Rhinocerus unicornis L. to và nặng hơn, trừ tai và đuôi có lông, toàn thân nhẵn, sừng dài và to hơn.

Tê giác hai sừng Inđônêxia - Rhinoceros sumatrensis Cuvier - so với hai loài trên nhỏ và ngắn hơn, thân dài 2,4-2,5m, con đực và con cái đều có hai sừng song song, sừng trước dài hơn. Sừng của con cái nhỏ và ngắn hơn.

Tại châu Phi còn hai loài tê giác nữa đều có hai sừng là hắc tê (Rhinoceros bicornis L.) và bạch tê (Rhinoceros simus Cottoni).

B. PHÂN BỐ VÀ SINH HOẠT CỦA TÊ GIÁC, CÁCH LẤY TÊ GIÁC

Xưa kia, tại nước ta có nhiều tê giác, hằng năm nhân dân ta phải nộp cống cho phong kiến Trung hoa nhiều sừng tê giác. Nhưng gần đây hầu như chưa phát hiện lại được. Theo tài liệu cũ của Pháp để lại, trong khoảng 30 năm từ 1900 đến 1930, trong cả 3 nước Việt, Lào và Cămpuchia các thợ săn nước ngoài đã bắn được khoảng 30 con tê giác. Năm 1934 người ta có phát hiện tê giác một sừng ở Sơn La và sọ tê giác ở nhà một viên tri châu vùng Sơn La.

Hiện nay người ta thấy tê giác ở Ấn Độ, Miến Điện, Thái Lan, Cămpuchia và có thể ở Việt Nam, Lào, Inđônêxia.

Nơi ở của tê giác là những khu rừng nhiệt đới rậm rạp, nơi không cao, tiếp xúc với đồng cỏ. Loại rừng này có những cây to xen với cỏ, tre, vấu, guốt, song và dây móc mây. Người ta thường gặp chúng đầm ở những nơi có nước. Chúng ưa đầm ở những vùng nhất định thường rộng khoảng 3,6x1,8m. Đây là những vũng đầm của lợn rừng hay nơi trũng tự nhiên do chúng mở rộng ra. Thức ăn của tê giác là măng tre, măng nứa, quả non, cành non.

Tê giác rất dữ tợn. Sau khi ăn bắt được, người ta cưa lấy sừng mà dùng. Nhu cầu tê giác trong đông y rất lớn. Giá sừng tê giác cũng rất đắt vì không đủ  nhu cầu.

C. THÀNH PHẦN HÓA HỌC

Hiện nay người ta chưa rõ hoạt chất của sừng tê giác là chất gì.

Nghiên cứu thành phần hóa học của tê giác người ta thấy trong tê giác có các chất như keratin, canxi cacbonat, canxi photphat.

Khi thủy phân, tê giác sẽ cho các axit amin là tyrosin, axit tiolacti (thiolactic) xystein.

Theo báo cáo của Nam Kinh dược học viện (Dược tài học, 1960) thì nước chiết của tê giác cho phản ứng ancaloit.

D. CÔNG DỤNG VÀ LIỀU DÙNG

Tê giác là một vị thuốc thường dùng trong đông y.

Theo tính chất giới thiệu trong các sách cổ: Tê giác vị đắng, chua, mặn, tính hàn; vào 3 kinh Tâm, Can và Vị. Tác dụng của nó là thanh huyết nhiệt (làm mát huyết), giải ôn độc và định kinh, thường dùng trong các trường hợp sốt quá hóa điên cuồng, sốt vàng da, thổ huyết, máu cam, nhức đầu, ung độc, hậu bối.

Có tác giả nghiên cứu thấy tê giác làm tăng nhu động ruột non, tăng hồng cầu và giảm bạch huyết cầu.

Gần đây, Trung Quốc dùng một đơn thuốc trong có tê giác để chữa bệnh viêm não có kết quả.

Liều dùng: Ngày uống 0,5-1g mài lấy nước uống hay sắc uống hoặc tán bột mà uống. Có khi dùng tới 4g hay 12g.

Đơn thuốc có tê giác:

   1. Chữa sốt nóng, mê man: Tê giác mài với nước cho đặc mà uống để chữa các chứng thổ huyết, máu cam, sốt nóng mê man, nói lảm nhảm, vàng người, phát ban hoặc như lên đậu mọc chi chít.

   2. Chữa sốt, giải độc: Tê giác, phòng phong, mộc thông rang bạch bì, cam thảo; những vị thảo mộc mỗi vị 4g. Sắc với 600ml nước còn 200ml. Mài sừng tê giác vào cho uống làm 3 lần trong ngày.

Trong đông y nói phàm những người không phải đại nhiệt không có ôn độc, đàn bà có thai thì không nên dùng.

Chú thích:

   Vì tê giác giá đắt lại hiếm cho nên có nhiều người dùng sừng khác để làm giả. Có người cũng vẫn thấy tốt.

   Gần đây, tại Trung Quốc, các nhà Trung y tỉnh Quảng Đông đã dùng sừng trâu - Cornu Bubali tức là sừng của con trâu hay thủy ngưu - Bubalus bubalis L. để thay sừng tê giác. Theo các vị trung y đã dùng sừng trâu nói sừng trâu cũng  tốt. Vậy ta có thể nghiên cứu để dùng thay tê giác vừa hiếm lại vừa đắt.

Nguồn: Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tác giả: Giáo sư Tiến sĩ khoa học ĐỖ TẤT LỢI



Xin vui lòng ghi rõ nguồn http://www.dotatloi.com khi phát hành lại thông tin.


Tuyên bố miễn trừ trách nhiệm:
Thông tin trên www.dotatloi.com chỉ phục vụ nghiên cứu học tập và mở rộng kiến thức. Không sử dụng làm căn cứ để tiến hành chẩn trị trên lâm sàng. Thông tin trên www.dotatloi.com có thể được trích dẫn, thu thập từ các ấn phẩm, các trang tin điện tử liên quan trong nước và ngoài nước. Nếu phát sinh vấn đề bản quyền, kính đề nghị phản hồi cho chúng tôi.

Viết bình luận

Để thuận tiện cho việc đăng tải, xin vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.
Chúng tôi mong muốn nhận được những bình luận theo hướng mở rộng hoặc bổ sung thông tin liên quan đến bài viết.
Chúng tôi sẽ khóa những bình luận có ngôn từ mang tính kích động hoặc bất nhã.

Thạch tín
07/07/2025 09:15 CH

- 信石. Còn gọi là tín thạch, nhân ngôn, phê thạch, hồng phê, bạch phê. Tên khoa học Arsennicum. Thạch tín còn gọi chệch là nhân ngôn vì chữ tín gồm một bên chữ nhân, một bên chữ ngôn. Thường người ta dùng chữ thạch tín để chỉ chất As2O3 thiên nhiên, thường c...

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu
Tên vị thuốc Mô tả
Dây quai bị - 厚葉崖爬藤 (厚叶崖爬藤). Còn gọi là dây dác, para (Phan rang). Tên khoa học Tetrastigma strumariun (Planch) Gagnep., (Tetrastigma crassipes var. strumarium Planch.). Thuộc họ Nho (Vitaceae).
Dây thuốc cá - 毛魚藤 (毛鱼藤). Còn gọi là dây duốc cá, dây mật, dây cóc, dây cát, lầu tín, tuba root (Anh), derris (Pháp), touba. Tên khoa học Derris elliptica Benth., Derris tonkinensis Gagnep. Thuộc họ Cánh bướm Fabaceae (Papilionaceae). Dây duốc cá là những cây cho rễ dùng đánh bả cá. Vì những cây này chỉ độc đối với sâu bọ và động vật máu lạnh, không độc đối với người và súc vật nuôi trong nhà cho nên còn được dùng trong nông nghiệp để diệt trừ sâu bọ. Cây có ở Việt Nam.
Dây toàn - 白毛藤. Còn gọi là già căn, douce amère. Tên khoa học Solanum dulcamara L. (Solanum lyratum Thunb.). Thuộc họ Cà (Solanaceae).
- 羊. Tên khoa học Capra sp. Thuộc họ Sừng rỗng (Bovidae).
Đỉa - 水蛭. Tên khoa học Hirudo medicinalis L. và nhiều loài khác. Thuộc họ Đỉa (Hirudinidae). Đỉa được dùng làm thuốc từ lâu nhưng bị lãng quên trong một thời gian dài. Gần đây nhu cầu bỗng trở lại và đỉa đã trở thành một nguồn xuất khẩu quan trọng ở nhiều nước.
Địa du - 地榆. Còn gọi là ngọc trát (Trung Quốc), sanguisorbe officinale, grande pimprenelle (Pháp), Pimpernel (Anh). Tên khoa học Sanguisorba officinalis L. Tên "địa du" vì "địa" là đất, "du" là cây du. Cây địa du lúc mới mọc lên, lá giống cây du, lan khắp trên mặt đất, nên đặt tên như vậy.
Địa liền - 山柰. Còn gọi là sơn nại, tam nại, thiền liền, sa khương, faux galanga. Tên khoa học Kaempferia galanga L., (Kaempferia rotunda Ridl.). Thuộc họ Gừng (Zingiberaceae). Sơn nại (Rhizoma Kaempferiae) là thân rễ thái mỏng phơi khô của cây địa liền. Tên địa liền vì lá mọc sát mặt đất.
Diêm sinh - 硫黄. Còn gọi là hoàng nha, lưu hoàng, thạch lưu hoàng, oải lưu hoàng. Tên khoa học Sulfur.
Điều nhuộm - 紅木 (红木). Còn gọi là xiêm phung, cham pou, champuk shralok (Cămpuchia), som hu, som phu, kam tai, kam set (Lào), rocouyer-annato. Tên khoa học Bixa orellana L. Thuộc họ Điều nhuộm (Bixaceae).
Đinh hương - 丁香. Còn gọi là cống đinh hương, đinh tử, đinh tử hương. Tên khoa học Syzygium aromaticum (L.) Merr.et Perry, Eugenia caryophyllata Thunb., Eygenia caryophillus (Sprengel) Bullock et. Hariss. Thuộc họ Sim (Myrtaceae). Vị thuốc giống như chiếc đinh, lại có mùi thơm nên đặt tên đinh hương. Tên caryophyllata do chữ caryo có nghĩa là quả giẻ, phyllus là lá; sau khi lá đài rụng hết, vị đinh hương giống như một quả hạt giẻ nhỏ được bao bọc bởi một vòng lá.
Đinh lăng - 細羽南洋參 (细羽南洋参). Còn gọi là cây gỏi cá, nam dương lâm. Tên khoa học Polyscias fruticosa (L.) Harms (Panax fruticosum L, Nothopanax fruticosum (L.) Miq., Tieghemopanax fruticosus (L.) R. Vig. Thuộc họ Ngũ gia bì (Araliaceae).
Đỗ trọng - 杜仲. Tên khoa học Eucommia ulmoides Oliv. Thuộc họ Đỗ Trọng (Eucommiaceae). Đỗ trọng (Cortex Eucommiae) là vỏ phơi hay sấy khô của cây Đỗ trọng. Xưa kia vì có người họ Đỗ tên Trọng dùng vị thuốc này, do đó mà đặt tên.
Độc hoạt - 獨活 (独活). Trên thị trường, tên độc hoạt dùng để chỉ thân rễ và rễ của nhiều cây khác nhau. Sau đây là một số vị chính: (1) Xuyên độc hoạt: Radix Angelicae tuhuo là thân rễ và rễ phơi hay sấy khô của cây xuyên độc hoạt (Angelica laxiflora Diels) ở vùng Hồ Bắc, hoặc cây Angelica megaphylla Diels ở vùng Tứ Xuyên, đều thuộc họ Hoa tán Apiaceae (Umebelliferae); (2) Hương độc hoạt: Radix Angelicae pubescentis là rễ của cây mao đương quy (Angelica pubescen Maxim) thuộc họ Hoa tán Apiaceae (Umbelliferae); (3) Ngưu vĩ độc hoạt: Radix Heraclei hemsleyani là rễ phơi hay sấy khô của cây độc hoạt đuôi trâu. Ngưu vĩ độc hoạt (Heracleum hemsleyanum Michx) thuộc họ Hoa tán Apiaceae (Umbelliferae). Cùng với tên ngưu vĩ độc hoạt có nơi còn dùng rễ phơi khô của cây độc hoạt lông mềm, nhuyễn mao độc hoạt - Heracleum lanatum Michx. cùng họ; (4) Cửu nhỡn độc hoạt: Độc hoạt 9 mắt, (Rhizoma Araliae cordatae) còn gọi là thổ đương quy (trong Bản thảo thập di) hay cửu nhỡn độc hoạt (vùng Tứ Xuyên, Trung Quốc) là thân rễ phơi hay sấy khô của cây cửu nhỡn độc hoạt (Aralia cordata Thunb) thuộc họ Ngũ gia bì (Araliaceae).
Đồi mồi - 玳瑁. Còn gọi là đại mạo, văn giáp. Tên khoa học Eretmochelys imbricata L. Thuộc họ Rùa biển (Chelonidae). Con đồi mồi cho ta vị thuốc gọi là đại mạo (Carapax éretmochelyti) là vảy của con đồi mồi phơi hay sấy khô.
Đơn buốt - 鬼针草. Còn gọi là đơn kim, quỷ trâm thảo, manh tràng thảo, tử tô hoang, cúc áo. Tên khoa học Bidens pilosa L.. Thuộc họ Cúc (Asteraceae).
Đơn châu chấu - 虎刺楤木. Còn gọi là cây cuồng, rau gai (Thái nguyên), độc lực (Hà tây), cẩm giảng (Bình gia, Lạng Sơn). Tên khoa học Aralia armata (Wall.) Seem (Panax armatum Wall.). Thuộc họ Ngũ gia bì (Araliaceae).
Đơn đỏ Còn gọi là bông trang đỏ, mẫu đơn, kam ron tea (Cămpuchia). Tên khoa học Ixora coccinea L. Thuộc họ Cà phê (Rubiaceae).
Đơn lá đỏ - 紅背桂 (红背桂). Còn gọi là đơn tướng quân, đơn tía, mặt quỉ, hồng bối quế hoa. Tên khoa học Excoecaria cochinchinesis Lour. (Excoecaria bicolor Hass., Excoecaria orientalis Pax. et Hoffm., Antidesma bicolor Hassk). Thuộc họ Thầu dầu (Euphorbiaceae).
ĐỐI TÁC - LIÊN KẾT
[ Lên đầu trang ]