Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu

TẮC KÈ - 蛤蚧

Còn gọi là đại bích hổ, cáp giải, cáp giới.

Tên khoa học Gekko gekko L.

Thuộc họ Tắc kè (Gekkonidae), bộ Thằn lằn (Sauria hay Lacertilia).

TẮC KÈ, 蛤蚧, đại bích hổ, cáp giải, cáp giới, Gekko gekko L., họ Tắc kè, Gekkonidae, bộ Thằn lằn, Sauria, Lacertilia

Tắc kè - Gekko gekko

TẮC KÈ, 蛤蚧, đại bích hổ, cáp giải, cáp giới, Gekko gekko L., họ Tắc kè, Gekkonidae, bộ Thằn lằn, Sauria, Lacertilia

Tắc kè khô

Tắc kè - Gekko - là con tắc kè mổ bỏ ruột phơi hay sấy khô.

A. MÔ TẢ CON VẬT

Con tắc kè giống như con "mối rách" hay "thạch sùng" nhưng to và dài hơn (không nên lầm với con thằn lằn).

Chiều dài của thân chừng 15-17cm, đuôi dài 15-17cm. Đầu bẹp hơi 3 cạnh, mắt có con ngươi thẳng đứng; 4 chân, mỗi chân có 5 ngón rời nối với nhau thành hình chân vịt, mặt dưới ngón có những màng phiến mỏng màu trắng sờ như có chất dính làm cho con vật có thể bám chặt vào tường hay cành cây khi trèo ngược.

Đầu, lưng và đuôi đều có những vẩy nhỏ hình hạt tròn hoặc nhiều cạnh, nhiều màu sắc từ xanh lá mạ đến xanh rêu đen có khi xanh nhạt hay đỏ nâu  nhạt. Màu sắc này còn thay đổi tùy theo lúc để cho màu sắc con vật giống cảnh vật xung quanh làm cho con vật lẩn tránh dễ dàng khi ở trên cây.

Đuôi tắc kè được coi như một bộ phận quý nhất của con vật. Khi bị gãy hay đứt có thể mọc lại được.

Con tắc kè sống ở những hốc cây hốc đá hoặc những khe hốc các nhà gác cao, tường cao. Nó ăn sâu bọ, dán, châu chấu, bướm, nắc nẻ, v.v... Những con vật  này phải cử động tắc kè mới trông thấy. Đến mùa rét nó không ăn mà vẫn sống mạnh khỏe.

Tắc kè đẻ trứng. Mỗi lần đẻ 2 trứng. Trung bình sau 90-100 ngày trứng mới nở. Không phải ấp. Mùa đẻ: Từ tháng 5 đến tháng 10.

Con đực kêu hai tiếng tắc kè, do đó thành tên. Nó kêu luôn một lúc 10-12 lần liền có khi nhiều hơn. Tiếng kêu càng về cuối càng nhỏ dần. Trong sách cổ có nói con đực kêu "tắc" con cái kêu "kè" nhưng thực tế một con kêu cả hai tiếng "tắc kè".

B. PHÂN BỐ, CÁCH BẮT VÀ CHẾ BIẾN TẮC KÈ

Tắc kè sống hoang tại các tỉnh miền thượng du nước ta như Hà Giang, Tuyên Quang, Bắc Thái, Cao Bằng, Lạng Sơn. Hàng năm ta có thể thu mua và xuất tới 250.000 con (riêng miền Bắc). Miền Nam trung bộ và Nam Bộ cũng có nhiều.

Ngoài nước tắc kè có ở nam Trung Quốc, Campuchia, Lào, Thái Lan, Miến Điện và Đông Bắc Ấn Độ.

Tắc kè thường kêu từ các tháng hè đến hết thu (5-10), vào thời kỳ này người ta tổ chức đi bắt. Vào mùa khác người ta dựa vào phân tắc kè mà đi tìm nơi chúng ở. Phân tắc kè gồm một thỏi màu nâu to và một cục trắng nhỏ. Muốn bắt tắc kè người ta tìm nơi hang hốc có tiếng kêu hay nơi nó thường đi lại. Người ta làm một que cứng, dẻo làm bằng tre cật, dài chừng 1m. Đầu que buộc một mớ tóc rối hay mớ sợi móc. Khi chọc đầu que này vào hốc, tắc kè ngoạm lấy, tóc rối vướng vào răng không mở ra, ta chỉ việc kéo ra mà bắt lấy. Mỗi hang hốc có thể bắt 2-10 con, có khi tới 20-30 con. Nếu hang hốc nông, người ta bao tay bằng vải thô rồi thò tay vào mà bắt.

Đem về mổ bụng bỏ hết ruột, dùng 2 que nứa nhỏ ngắn, một que căng hai chân trước và một que căng hai chân sau. Một que nữa thì xuyên dọc suốt từ đầu đến quá đuôi. Nơi đuôi người ta lấy giấy bản cắt thành dải cuộn chặt vào que để bảo vệ đuôi. Sau đó phơi hoặc sấy khô. Khi dùng, bỏ mắt, chặt bốn bàn chân, sấy khô tán nhỏ hoặc hoặc cắt nhỏ ngâm rượu.

C. NGHIÊN CỨU THÀNH PHẦN HÓA HỌC

Năm 1958, sơ bộ, chúng tôi nghiên cứu thấy trong đuôi tắc kè có rất nhiều chất béo (23-25%).

Trong toàn thân tỷ lệ chất béo chỉ có 13-15%. Chất béo có 3,88% chất không xà phòng hóa.

Trong chất béo có một loại tinh thể đặc biệt. Tuy nhiên, hoạt chất chưa rõ (Đỗ Tất Lợi, 1958).

Năm 1962 (Farmacia 5-1963, Rumania), G. Hermann, I. Ciulei, M. Marin, Đỗ Tất Lợi, Elena Hadarag, Emilia  Dumitriu và P. Balaci đã nghiên cứu thấy trong toàn thân tắc kè có các axit amin theo thứ tự từ nhiều đến ít như sau: Axit glutamic, alanin, glyxin, axit axpartic, acginin, lysin, serin, leuxin, isoleuxin, phenylalanin, valin, prolin, histidin, treonin và xystein.

D. TÁC DỤNG DƯỢC LÝ

Theo tài liệu cổ tắc kè có tác dụng làm cho đỡ mệt nhọc, vì vậy muốn thử xem có phải đúng tắc kè hay không, người ta thử như sau: Nướng tắc kè cho vàng, giã nhỏ, ngậm một ít, chạy một quãng đường, không thấy thở mới là thực - Theo Lý Tuân do Lý Thời Trân thuật lại trong Bản thảo cương mục.

Ngoài ra trong các tài liệu cổ còn ghi tắc kè có tác dụng chữa hen, lao phổi và cường dương.

Năm 1962 các tác giả trên (xem phần nghiên cứu hóa học) đã thí nghiệm dược lý và đã đi tới một số kết luận sau đây:

   1. Thuốc chế từ tắc kè (rượu sau khi đã bốc hơi để loại rượu) có tác dụng chống vi trùng Gram âm và Gram dương, nhưng vòng vô khuẩn nhỏ.

   2. Thuốc tắc kè không gây hiện tượng dị ứng, dùng chế dưới dạng thuốc tiêm, không gây phản ứng tại chỗ hay toàn thân.

   3. Thuốc tắc kè có tính chất kích thích sự nở lớn.

   4. Nghiên cứu tác dụng thuốc tắc kè trên máu, các tác giả thấy thuốc tắc kè làm tăng lượng hồng huyết cầu, tăng huyết sắc tố và không ảnh hưởng tới hệ thống bạch cầu.

   5. Đối với ruột cô lập của thỏ, thuốc tắc kè có tác dụng kích thích, làm tăng trương lực (tonus) tăng biên độ; tác dụng này rất rõ và kéo dài.

   6. Trên tim ếch tại chỗ, tắc kè có tác dụng làm tim chậm lại. Với tài liệu dùng trong thí nghiệm, thuốc tắc kè đã gây hiện tượng đã cân sức âm (inotropisme Négatif) chính điệu âm (chronotropisme négatif) và cơ dẫn âm (dromotropisme négatif).

   7. Tiêm thuốc tắc kè vào mạch máu chó đã gây mê, huyết áp hạ thấp trong 1-2  phút, sau đó từ từ trở lại bình thường.

   8. Tiêm mạch máu cho chó đã gây mê, với liều 3-5ml, thấy có hiện tượng giảm tiết niệu nhất thời.

E. CÔNG DỤNG VÀ LIỀU DÙNG

Tắc kè là một vị thuốc nhân dân, dùng làm thuốc bổ và chữa ho.

1. Thuốc bổ: Tác dụng ngang như nhân sâm, thịt để dùng cho những người giao cấu không được bền bỉ. Thường người ta dùng một đôi con đực và con cái. Nhưng thực tế rất khó phân biệt con đực và con cái, cho nên cứ dùng 2 con một.

2. Chữa các chứng ho có đờm hay không có đờm lâu ngày không khỏi, khạc ra mủ máu, ho luôn không dứt, hơi nghẽn lên cổ.

Bản thân tác giả thường dùng khi trí não mệt nhọc, thấy chóng tỉnh táo khoan khoái.

Hình thức dùng có thể sấy khô tán bột uống riêng hoặc trộn với các vị thuốc khác. Cũng có thể ngâm rượu mà uống. Ngày uống 3 đến 4g dưới dạng thuốc bột hay ngâm rượu.

Theo tài liệu cổ: Tắc kè có vị mặn, tính ôn; vào 2 kinh Phế và Thận. Có tác dụng bổ phế thận, ích tinh, trợ dương, chữa hen suyễn. Dùng chữa hư lao, ho có mủ, ho ra máu, hen suyễn, tiêu khát. Người có đờm ẩm hen suyễn không dùng được.

Những đơn thuốc kinh nghiệm có tắc kè:

   1. Rượu tắc kè, chữa suy nhược thần kinh, đau ngang thắt lưng: Tắc kè mổ bỏ ruột, sấy khô, cắt bỏ đầu, chân, ngâm với rượu; mỗi một lít  rượu 35-40º ngâm 2 đến 5 con. Ngâm trong một tuần lễ trở lên. Lọc lấy rượu trong mà uống. Ngày uống (15-30ml) chừng nửa cốc con. Uống nguyên hoặc pha với mật ong cho ngọt. Có thể thêm ít trần bì hay vỏ cam vào cho thơm. Uống vào buổi tối hay sáng sớm.

   Dùng cho những người hay mệt nhọc, đau xương đau người, đau ngang thắt lưng.

   2. Đơn thuốc chữa ho, nặng mặt, nặng cả chân tay: Tắc kè một đôi, bỏ đầu, chân, lấy rượu bôi khắp lượt rồi nướng chín. Nhân sâm 20g (hoặc có thể dùng đảng sâm 40g). Cả hai vị sấy khô tán nhỏ. Cất trong lọ kín ăn dần. Ngày ăn 4g bột này.

   3. Đơn thuốc chữa bệnh ho lao, già mà ho nhiều đờm, tim yếu: Tắc kè một đôi bỏ đầu, chân, sấy khô tán nhỏ. Đảng sâm 20g, quy bản nướng tán  bột 20g, bắc sa nhân 20g tán bột. Tất cả trộn đều. Thêm vị táo đỏ và giã nát làm thành viên, mỗi viên nặng 1g. Ngày uống 3 lần, mỗi lần 1 đến 2 viên, nhai và dùng nước mà chiêu thuốc.

Nguồn: Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tác giả: Giáo sư Tiến sĩ khoa học ĐỖ TẤT LỢI



Xin vui lòng ghi rõ nguồn http://www.dotatloi.com khi phát hành lại thông tin.


Tuyên bố miễn trừ trách nhiệm:
Thông tin trên www.dotatloi.com chỉ phục vụ nghiên cứu học tập và mở rộng kiến thức. Không sử dụng làm căn cứ để tiến hành chẩn trị trên lâm sàng. Thông tin trên www.dotatloi.com có thể được trích dẫn, thu thập từ các ấn phẩm, các trang tin điện tử liên quan trong nước và ngoài nước. Nếu phát sinh vấn đề bản quyền, kính đề nghị phản hồi cho chúng tôi.

Viết bình luận

Để thuận tiện cho việc đăng tải, xin vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.
Chúng tôi mong muốn nhận được những bình luận theo hướng mở rộng hoặc bổ sung thông tin liên quan đến bài viết.
Chúng tôi sẽ khóa những bình luận có ngôn từ mang tính kích động hoặc bất nhã.

focus Nhau sản phụ
16/06/2025 08:18 CH

- 紫河車 (紫河车). Còn gọi là thai bàn, thai y, thai bào, nhân bào, tử hà sa. Tên khoa học Placenta Hominis. Nhau sản phụ là bộ phận ở trong tử cung của người mẹ cùng với cái thai. Khi thai còn ở bụng mẹ thì nhau sản phụ có nhiệm vụ che chở và nuôi dưỡng thai.

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu
Tên vị thuốc Mô tả
Lạc - 落花生. Còn gọi là đậu phộng, lạc hoa sinh (Trung Quốc), arachide, pistache deterre, cacahuete (Pháp). Tên khoa học Arachis hypogea Linn. Thuộc họ cánh Bướm Fabaceae (Papilionaceae). Chú thích về tên: Hypogea có nghĩa là quả ở trong đất vì quả được hình thành và chín trong đất.
Lạc tiên - 龍珠果 (龙珠果). Còn gọi là cây lạc, cây nhãn lồng (Nam Bộ), lồng đèn, hồng tiên, long châu quả, mắc mát (Đà Lạt). Tên khoa học Pasiflora foetida L. Thuộc họ Lạc tiên (Passifloraceae).
Lân tơ uyn Còn gọi là dây sống rắn (Quảng Nam), cây đuổi phượng (Khu V, miền Bắc), lân tơ uyn (Kontum). Tên khoa học Raphidophora decursiva Schott. Thuộc họ Ráy (Araceae).
Lấu - 九节木. Còn gọi là lấu đực, huyết ti la tản, sa huenk (Lào), ko sa mat (Lào), đại la tản (Quảng Tây). Tên khoa học Psychotria montana Bl. Thuộc họ Cà phê (Rubiaceae).
Lêkima - 蛋黄果. Còn gọi là lu cu ma, sapotille mamey, sapotille Mamey, sapote Mamey. Tên khoa học Lucuma mammosa Gaertn.; Vitellaria mammosa Radik.; Calocarpum mammosum Pierre. Thuộc họ Hồng xiêm (Sapotaceae).
Liên kiều - 連翹 (连翘). Còn gọi là trúc can, hoàng thọ đan, hạn liên tử. Tên khoa học Forsythia suspensa Vahl. Thuộc họ Nhài (Oleacae). Liên kiều (Fructus Forssythiae) là quả phơi hay sấy khô của cây liên kiều.
Lô hội - 蘆薈 (芦荟). Còn gọi là tượng đảm, du thông, nô hội, lưỡi hổ, hổ thiệt, long tu (Bình Định). Tên khoa học Aloe sp. Thuộc họ Hành tỏi (Liliaceae). Vị thuốc lô hội (Aloe) là dịch cô đặc của lá nhiều loài cây lô hội (có khi gọi là cây hổ thiệt - lưỡi hổ - vì lá giống lưỡi hổ). Lô hội được dùng cả trong đông y tuy nhập của Trung Quốc nhưng Trung Quốc cũng phải nhập của nước ngoài để xuất lại sang ta. Lô là đen, hội là tụ lại, vì nhựa cây này cô đặc có sắc đen, đóng thành bánh do đó có tên.
Lộc giác - 鹿角. Còn gọi gạc hươi nai. Tên khoa học Cornu Cervi.
Lộc mại - 丢了棒. Còn gọi là rau mọi, lục mại. Tên khoa học Mercurialis indica Lour. Thuộc họ Thầu dầu (Euphorbiaceae).
Lộc nhung, mê nhung - 鹿茸, 麋茸. Còn gọi là nhưng hươu, nhung nai. Tên khoa học Cornu Cervi parvum. Lộc nhung hay mê nhung (Cornu Cervi parvum) là sừng non của con hươu (lộc) Cervus nippon Temminck, hoặc con nai (mê) Cervus unicolr Cuv. đực được chế biến mà thành. Cả hai con đều thuộc ngành có xương sống Vertebrata, lớp có vú Mammalia, bộ có móng Artiodactyla, họ Hươu (Cervidae). Ta vẫn thường nói sâm, nhung, quế, phụ là 4 vị thuốc bổ đứng đầu dùng trong Đông y. Hay dùng nhất là sâm, nhung rồi đến quế và phụ tử. Phụ tử được coi là một vị thuốc "bổ dương" nhưng có độc cho nên nhiều người không dám dùng.
Lõi tiền - 糞箕篤 (粪箕笃). Còn gọi là phấn cơ đốc. Tên khoa học Stephania longa Lour. Thuộc họ Tiết dê (Menispermaceae).
Long đởm thảo - 龍膽草 (龙胆草). Tên khoa học Gentiana scabra Bunge. Thuộc họ Long đởm (Gentianaceae). Long đởm thảo (Gentiana hay Radix Gentianae) là thân rễ và rễ phơi hay sấy khô của cây long đởm Gentiana scabra Bunge hay những loài khác cùng họ. Long là rồng, đởm là mật, vì vị thuốc này trông giống râu rồng, có vị đắng như mật.
Long não - 樟木. Còn gọi là chương não, rã hương, may khao khinh (Lào). Tên khoa học Cinnamomum camphora L. Nees. et Eberm. (Laurus camphora L.). Thuộc họ Long não (Lauraceae). Long não (Camphora) là tinh thể không màu mùi thơm đặc biệt cất từ lá, gỗ hoặc rễ cây long não. Có khi đóng thành bánh.
Long nha thảo - 龍芽草. Còn có tên tiên hạc thảo. Tên khoa học Agrimonia nepalensis D. Don (Agrimonia eupatoria auct. non L.). Thuộc họ Hoa hồng (Rosaceae). Ta dùng toàn cây phơi hay sấy khô (Herba Agrinmoniae) của cây long nha thảo.
Long nhãn - 龍眼 (龙眼). Còn có tên là lệ chi nô, á lệ chi. Tên khoa học Euphoria longana Lamk [Euphoria longan (Lour.) Steud., Nephelium longana Lamk.]. Thuộc họ Bồ hòn (Sapindaceae). Long nhãn nhục (Arillus Longanae) là áo hạt phơi hay sấy khô nửa chừng của quả nhãn. Tên lệ chi nô vì mùa nhãn đến ngay sau khi mùa vải đã hết như người hầu cận theo chủ nhân (lệ chi là quả vải, nô là người hầu cận). Tên long nhãn vì giống mắt con rồng (long là rồng, nhãn là mắt).
Lu lu đực - 龍葵 (龙葵). Còn gọi là thù lù đực, gia cầu, nút áo, hiên già nhi miêu, morelle noire, raisin de oup, herbe au magicien. Tên khoa học Solanum nigrum L.. Thuộc họ Cà (Solanaceae).
Lục lạc ba lá tròn - 豬屎豆 (猪屎豆). Còn gọi là muống tía, dã hoàng đậu, chư thi đậu. Tên khoa học Crotalaria mucronata Desv. Thuộc họ Cánh bướm (Papilionaceae).
Lưỡi rắn - 水線草. Còn gọi là vương thái tô, cóc mẳn, đơn thảo, đơn đòng, tán phòng hoa nhĩ thảo. Tên khoa học Oldenlandia corymbosa L. (O. biflora Lamk, Hedyotis burmaniana R. Br). Thuộc họ Cà phê (Rubiaceae).
ĐỐI TÁC - LIÊN KẾT
[ Lên đầu trang ]