Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu

SỬ QUÂN TỬ - 使君子

Còn gọi là cây quả giun, quả nấc, sứ quân tử.

Tên khoa học Quisqualis indica L.

Thuộc họ Bàng (Combretaceae).

sử quân tử, 使君子, cây quả giun, quả nấc, sứ quân tử, Quisqualis indica L., họ Bàng, Combretaceae

sử quân tử, 使君子, cây quả giun, quả nấc, sứ quân tử, Quisqualis indica L., họ Bàng, Combretaceae

Sử quân tử - Quisqualis indica

Ta dùng quả chín (Fructus Quisqualis) hay nhân chín (Semen Quisqualis) phơi hay sấy khô của cây sử quân tử.

Tên đúng là sử quân tử (hạt của ông sứ quân) vì trước đây có một vị sứ quân (người đứng đầu một vùng ngày xưa) chuyên dùng hạt này chữa bệnh cho trẻ em. Về sau đọc chệch thành sử quân.

A. MÔ TẢ CÂY

Sử quân tử là một loại dây leo hay nói cho đúng loại cây mọc tựa vào cây khác, hoặc hàng rào. Lá mọc đối, đơn, nguyên, hình trứng đầu nhọn, phía cuống hơi tròn hình tim, dài 7-9cm, rộng 4-5cm, cuống ngắn. Hoa hình ống, lúc đầu màu trắng, sau chuyển hồng và đỏ, mọc thành chùm ở kẽ lá hoặc đầu cành, dài 4-10cm. Quả khô, hình trứng nhọn, dài 35mm, dầy 20mm, có 5 cạnh dọc hình 3 cạnh, có chứa 1 hạt dài phía dưới hơi rộng, phía đầu hơi mỏng, có 5 đường sống chạy dọc.

B. PHÂN BỐ, THU HÁI VÀ CHẾ BIẾN

Cây sử quân mọc hoang ở hầu hết các tỉnh miền Bắc và miềm Trung nước ta. Tại các tỉnh, nhất là thành phố, một số gia đình trồng làm cảnh vì cây xanh tốt quanh năm, hoa đỏ đẹp. Nhưng người ta nhận thấy cây trồng ở thành phố thường không có hay ít có quả. Cũng chưa có ai đi sâu nghiên cứu nguyên nhân. Hoa nở từ tháng 4-7, tháng 8 quả chín, hái về phơi hay sấy khô là được. Thường quả nguyên dễ bảo quản hơn. Khi dùng người ta đập lấy nhân, có khi ngay từ nơi thu hái người ta đập lấy nhân phơi khô.

Một số nơi người ta hái hoa hoặc đào rễ về làm thuốc. Trồng cây sử quân tử không yêu cầu diện tích rộng lớn, chỉ cần có chỗ dựa là phát triển được. Sau  2-3 năm, thu hoạch. Một khóm sử quân tử hằng năm cho từ 5-15kg quả trị giá 5-20kg gạo.

Trồng bằng hạt: Chọn các quả đẫy và chắc, gieo vào mùa Xuân (tháng 2-3) hoặc mùa Thu, sau khi thu hoạch quả. Trước khi gieo, ngâm qua vào nước nóng 45o trong một ngày. Mỗi hốc gieo 2-3 quả. Sau 35-40 ngày quả nẩy mầm. Cây con cao độ 15-20cm, đem đánh trồng vào nơi cố định.

Trồng một lần sẽ thu hoạch mãi. Càng những năm sau, thu hoạch càng lớn.

Có thể trồng bằng cành: Chọn những cành to khỏe, cắt thành từng khúc dài 25-30cm. Cắm nghiêng, đầu ngọn nhô khỏi mặt đất độ 3-5cm. Sau độ 10 ngày mầm đã mọc dài. Nên trồng vào mùa Xuân. Trồng bằng cành, sau 2 năm đã thu hoạch được.

C. THÀNH PHẦN HÓA HỌC

Trong nhân sử quân tử có chứa từ 21-22% chất dầu béo màu xanh lục nhạt, sền sệt, mùi nhựa, vị nhạt không có tác dụng tẩy giun.

Ngoài ra còn chất gôm, các chất hữu cơ, chất đường 19-20% axit hữu cơ (axit xitric), kali sunfat. Hoạt chất hiện nay chưa xác định.

Năm 1952, Trần Tử Nghĩa và Lý Chính Hoa (1952. Trung hoa y học tạp chí, 38. 4. 319-321) đã báo cáo chiết từ nhân sử quân tử muối kali của axit quisqualic C10H16O10N6K3 có tác dụng diệt giun. Axit quisqualic có phản ứng axit mạnh, nhưng muối natri của axit quisqualic (dùng cacbonat axit để trung hòa) thì không có tác dụng mạnh trên giun.

Năm 1958, Hoàng Trung Nghi (Giang tây Trung y dược, 2: 52-56) đã báo cáo dựa trên độ kiềm của tro sử quân tử để định lượng tác dụng mạnh yếu trừ giun của sử quân tử, đã đi tới kết luận là dung môi tốt nhất để chiết hoạt chất của sử quân tử là nước, cồn 45o kém hơn, cồn 95o hầu như không chiết được chút nào.

Axit quisqualic

D. TÁC DỤNG DƯỢC LÝ

Sử quân tử đã được nhiều người nghiên cứu. Tuy nhiên còn nhiều vấn đề chưa được giải quyết.

Tác dụng diệt giun: Năm 1935, Perrier thí nghiệm nước sắc sử quân tử ở Việt Nam trên giun đất nặng 20centigam nhận thấy so với đối chứng, giun bị tác dụng của nước sắc sử quân tử, dẫy dụa, sau tê liệt bộ phận, da bong ra, màu nhợt nhạt, mê rõ rệt.

Năm 1947, Chu Đình Xung và Trương Xương Thiệu (Khoa học 20, I: 143, Trung văn) đã thí nghiệm so sánh dung dịch của nước sử quân tử 10% và dung dịch 0,5% kaliclorua trên giun đất đều thấy tác dụng như nhau cho nên các tác giả này đã kết luận hoạt chất của sử quân tử là muối cali chứa trong sử quân tử.

Năm 1948, Ngô Vân Thùy và cộng sự (Trung Hoa y học tạp chí 34: 437-441) báo cáo đã nghiên cứu so sánh tác dụng diệt giun của nhiều vị thuốc Đông y (quán chúng, lôi hoàn, ô dược, xuyên luyện tử, bách bộ, hắc sửu, bạch sửu, .v.v.) đã kết luận sử quân tử có tác dụng diệt giun mạnh.

Năm 1950, Hồ Mộng Gia (Trung Hoa y học tạp chí 36: 619-622) báo cáo đã dùng cồn 95o, cồn 50o để chiết sử quân tử, bã sau khi chiết bằng cồn 90o được chiết bằng nước rồi thí nghiệm tác dụng trên giun đất thấy dịch chiết bằng cồn 95o không có tác dụng, dịch chiết bằng cồn 50o và nước hơi có tác dụng, ức chế và gây mê.

Tác giả còn dùng nhiều dung môi khác nhau để chiết, thì thấy hoạt chất tan trong nước, trong cồn mêtylic, nhưng không tan trong ête dầu hỏa, clorofoc, cồn 95o. Sau khi cho lên men để loại bỏ phần đường trong sử quân tử vẫn thấy còn công hiệu.

Năm 1958, căn cứ vào kinh nghiệm nhân dân nói sử quân tử cắt bỏ đầu và cắt  hết màng vỏ lụa đi thì không gây nấc, chúng tôi và một số anh em trong bộ môn dược liệu Trường đại học Y Dược khoa Hà Nội đã tiến hành cắt bỏ đầu và bóc màng đi rồi cho ăn sống hoặc sắc uống, đều vẫn thấy có trường hợp gây nấc, khi mới uống không thấy nấc. Thường sau khi ăn cơm (nếu không uống vào sáng, đến trưa sau khi ăn cơm) thì thấy bắt đầu nấc, uống quá nhiều thì thấy mệt, ngoài ra không thấy hiện tượng nguy hiểm nào khác.

Năm 1960, chúng tôi đã dùng cả lá, hoa, vỏ quả, nhân quả giun sắc với nước rồi thí nghiệm trên giun đất đều thấy có tác dụng làm cho giun tê liệt. Trên cơ sở thí nghiệm này, chúng tôi đã dùng nước sắc toàn quả giun không bóc vỏ để chữa giun vẫn có kết quả. Giảm được động tác bóc vỏ là một công việc phức tạp, tuy nhiên vẫn có trường hợp bị nấc (tác giả Đỗ Tất Lợi).

Theo Trung Hoa y học tạp chí 1952 thì hoạt chất trong sử quân tử là axit quisqualic, muối kali của axit quisqualic trên lâm sàng có tác dụng tương tự santonin.

Độc tính: Năm 1924, một nhà nghiên cứu Nhật Bản (Trường kỳ y học hội tạp chí, 2: 471-485) đã dùng dung dịch nước sắc sử quân tử tiêm dưới da chuột bạch; sau vài phút xuất hiện hiện tượng mỏi mệt, hô hấp chậm lại, không đều, sau 1,2 giờ, toàn thân co quắp, hô hấp đình lại mà chết, tuy nhiên tim còn hơi co bóp.

Liều tối thiểu gây chết là 0,02g/kg thể trọng.

Tiêm mạch máu, huyết áp hạ xuống.

Uống vào nhiều, dạ dày và ruột sẽ sưng, đi tả và nấc.

Năm 1926, K. M. Wu (Chemical analysis and animal experimentation of Quisqualis indica Mat. Med J. China 12 (2): 161-170) đã báo cáo độc tính của sử quân tử không cao. Với liều 26,6g/kg cho chó uống thì ngoài hiện tượng nôn và nấc không thấy triệu chứng ngộ độc nào khác. Và sau 10 giờ, trạng thái hoàn toàn trở lại bình thường. Cho chó uống dầu sử quân tử với liều 0,75g/kg thì không thấy nôn mửa, nấc và hơi có tác dụng tẩy.

Năm 1956, Ngô Vân Thùy (Luận văn trích yếu của Hội khoa học sinh lý Trung Quốc: 27-28) báo cáo cho chuột nhắt và thỏ uống với liều 50-100mg/10g đều thấy chịu thuốc, không thấy hiện tượng ngộ độc.

Thí nghiệm trên lâm sàng năm 1955, Vương Vĩnh Tường và Trương Lập (Trung Hoa y học tạp chí 5: 456-459) đã báo cáo dùng sử quân tử để chữa bệnh cho 116 học sinh và giáo viên kết quả đạt 68,9%.

Các tác giả dùng liều 10g đối với trẻ em dưới 12 tuổi, 20g đối với trẻ em trên 13 tuổi, uống một lần vào buổi sáng. Sau khi uống sử quân tử 3 giờ, uống một liều thuốc tẩy (sunfat natri hay sunfat magiê 15g). Một số thấy hiện tượng nấc, buồn nôn, nhức đầu, táo bón. Những hiện tượng này chóng hết.

Năm 1957 Đoạn Ngọc Thanh, Lý Chính Hoa (Dược học học báo 5 (2): 87-91) báo cáo dùng sử quân tử và muối kali của axit quisqualic điều trị được 240 người: 19 người uống muối kali của axit quisqualic với liều 0,025, 0,075, 0,10 và 0,125g, không uống thuốc tẩy, 69 người uống sử quân tử với liều 10 nhân đối với trẻ trên 13 tuổi, cũng không uống thuốc tẩy. Đã chứng minh muối kali của axit quisqualic với liều 0,125g có tác dụng ra giun với tỷ lệ cao, đạt  82%. Tuy nhiên vẫn thấy hiện tượng phụ là gây nấc.

E. CÔNG DỤNG VÀ LIỀU DÙNG

Sử quân tử là một vị thuốc được dùng từ lâu đời.

Sách địa chí (cổ) chép: Quách sứ quân ở Phiên Châu chữa trẻ em phần nhiều chỉ dùng một vị này, từ đó về sau các nhà làm thuốc mới gọi là sử quân tử.

Tính chất của nó theo các sách cổ như sau: Vị ngọt, tính ôn, không có độc; vào 2 kinh Tỳ và Vị; chữa 5 chứng cam của trẻ em tiểu tiện đục, sát trùng và chữa khỏi chứng tả lỵ, còn làm khỏe tỳ vị, chữa hết thảy các bệnh lở, ngứa của trẻ em (Lý Thời Trân - Bản thảo cương mục).

Trên thực tế, sử quân tử thường được dùng chữa giun đũa với liều 3-5 nhân cho trẻ em, 10 nhân cho người lớn, tối đa 20g. 3 giờ sau khi uống hết, nên uống một liều thuốc tẩy, có thể dùng riêng hay phối hợp với những vị thuốc giun khác như binh lang (hạt cau) và thuốc tẩy (đại hoàng).

Còn dùng được dưới dạng thuốc sắc ngậm chữa đau nhức răng, ngày ngậm nhiều lần không kể liều lượng.

Đơn thuốc có sử quân tử:

    1. Thuốc cam giun giúp sự tiêu hóa (Kinh nghiệm Đỗ Tất Lợi): Nhân sử quân tử sao cho vàng thơm và giòn, tán nhỏ 2 phần, thóc ngâm cho nảy mầm sao vàng nửa phần. Tất cả tán nhỏ, trộn đều. Sấy khô. Có thể thêm đường vào đóng thành bánh. Dùng cho trẻ em bị giun, gầy còm, kém ăn, ăn không tiêu, da vàng, miệng hay chảy nước giãi. Ngày uống 1-2 thìa cà phê bột này, hòa vào nước cháo hay mật ong. Trẻ em thích ăn bột này vì thơm ngon. Ăn nhiều quá mới có hiện tượng nấc, nhưng chóng hết.

    2. Chữa đau nhức răng (Kinh nghiệm cổ, Đỗ Tất Lợi đã xác minh lại): Sử quân tử (cả quả) đập nát 10 quả, thêm nước vào (1 bát) đun sôi và giữ sôi 15 phút. Ngậm trong ngày. Sau khi ngậm có thể nuốt nước này. Nhiều khi vừa khỏi đau răng, vừa ra giun.

    3. Chữa trẻ em hư thũng, mặt chân sưng phù (Giản tiện phương-tài liệu cổ): Sử quân tử 40g đập bỏ vỏ quả, tẩm với mật nướng hay sao cho khô, tán bột mỗi ngày uống 4g hòa với nước cơm hay nước cháo.

    4. Thuốc cam Thác nghè: Sử quân tử 3 phần, bạch chỉ 5 phần, hoàng cầm 2 phần. Sử quân tử sao vàng, bạch chỉ và hoàng cầm không sao. Tất cả tán nhỏ. Ngày uống 1-5 thìa cà phê chia 3 lần uống (Thanh Hóa).

Nguồn: Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tác giả: Giáo sư Tiến sĩ khoa học ĐỖ TẤT LỢI



Xin vui lòng ghi rõ nguồn http://www.dotatloi.com khi phát hành lại thông tin.


Tuyên bố miễn trừ trách nhiệm:
Thông tin trên www.dotatloi.com chỉ phục vụ nghiên cứu học tập và mở rộng kiến thức. Không sử dụng làm căn cứ để tiến hành chẩn trị trên lâm sàng. Thông tin trên www.dotatloi.com có thể được trích dẫn, thu thập từ các ấn phẩm, các trang tin điện tử liên quan trong nước và ngoài nước. Nếu phát sinh vấn đề bản quyền, kính đề nghị phản hồi cho chúng tôi.

Viết bình luận

Để thuận tiện cho việc đăng tải, xin vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.
Chúng tôi mong muốn nhận được những bình luận theo hướng mở rộng hoặc bổ sung thông tin liên quan đến bài viết.
Chúng tôi sẽ khóa những bình luận có ngôn từ mang tính kích động hoặc bất nhã.

focus Khoai tây
04/02/2025 08:15 CH

- 馬鈴薯 (马铃薯). Tên khoa học Solanum tuberosum L. Thuộc họ Cà (Solanaceae). Khoai tây chủ yếu là một cây lương thực; ở đây chúng tôi chỉ chú ý tới hiện tượng đau bụng, đi ngoài do ăn khoai tây mọc mầm và dùng chất gây đau bụng đi ngoài ấy trong chữa bệnh.

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu
Tên vị thuốc Mô tả
Hoàng nàn - 長籽馬錢 (长籽马钱). Còn gọi là vỏ dãn, vỏ doãn. Tên khoa học Strychnos wallichiana Steud, ex Dc., Strychnos gauthierana Pierre (Strychnos malacensis Clarke). Thuộc họ Mã tiền (Loganiaceae). Hoàng nàn (Cortex Strychnii gauthieranae) là vỏ thân phơi hay sấy khô của cây hoàng nàn.
Hồi - 大茴香. Còn gọi là đại hồi, bát giác hồi hương, đại hồi hương. Tên khoa học Illicium verum Hook.f. Thuộc họ Hồi (Illiciaceae). Đại hồi hay bát giác hồi hương (Fructus Anisi Stellati hoặc Anisum stellatum hay Illicium) là quả chín phơi khô của cây hồi. Hồi là về, hương là thơm; thịt thiu hay tương thối cho ít đại hồi vào nấu thì mùi thơm lại trở về do đó có tên.
Hồi đầu thảo - 水田七. Còn gọi là vùi đầu thảo, vui sầu. Tên khoa học Schizocapsa plantaginea Hance. Thuộc họ Râu hùm (Taccaceae).
Hồi núi - 八角. Còn gọi là đại hồi núi (Faux badianier), mu bu (tiếng Mèo). Tên khoa học Illicium griffithii Hook. f. et Thoms. Thuộc họ Hồi (Illiciaceae).
Hồng đậu khấu - 紅豆蔻 (红豆蔻). Còn gọi là sơn khương tử, hồng khấu. Tên khoa học Alpinia galanga Willd. Thuộc họ gừng (Zingiberaceae). Hồng đậu khấu - (Fructus Alpiniae galangae) là quả chín phơi hay sấy khô của cây riềng nếp (Alpinia galanga Willd.).
Hublông - 啤酒花. Còn gọi là houblon, hương bia, hoa bia. Tên khoa học Humulus lupulus L. Thuộc họ Gai mèo (Cannabinaceae).
Hương bài - 山菅蘭 (山菅兰). Còn gọi là cát cánh lan, lưỡi đòng, huệ rừng - hương lâu, rẻ quạt, xường quạt, sơn gian lan. Tên khoa học Dianella ensifolia DC. (Dianella odorata Lamk. Dianella javanica Kunth., Dianella sandwicensis Hook. et Arn. Dianella nemorosa (L.) DC.). Thuộc họ Hành tỏi (Liliaceae). Cần chú ý ngay rằng tên hương bài dùng để chỉ hai cây khác nhau về hình dáng cũng như về họ thực vật. Cây hương bài thứ hai còn có tên là hương lau (Vetiveria zizanioides Nash) thuộc họ Lúa (Gramineae), rễ dùng nấu nước gội đầu cho thơm và cất tinh dầu hương bài.
Hương diệp Còn gọi là cây lá thơm, giêranium. Tên khoa học Pelargonium roseum Willd. Thuộc họ Mỏ hạc (Geraniaceae). Hương diệp là tên đặt theo tên Trung Quốc. Bản thân Trung Quốc cũng mới di thực cây này với mục đích cất một loại tinh dầu có mùi hoa hồng, thay cho tinh dầu hoa hồng quá đắt. Ta cũng mới đặt vấn đề di thực cây này. Chưa phát triển rộng.
Hương lâu - 香根草. Còn gọi là cỏ hương bài, hương lau. Tên khoa học Vetiveria zizanioides (Linn.) Nash.- Andropogon squarrosus Hack. Thuộc họ Lúa (Gramineae hay Poaceae).
Hương phụ - 香附. Còn gọi là củ gấu, cỏ gấu, cỏ cú. Tên khoa học Cyperus rotundus Linné. Thuộc họ Cói (Cyperaccae). Vị hương phụ là thân rễ - Rhizoma Cyperi - phơi hay sấy khô của cây củ gấu hay cỏ gấu Cyperus rotundus L. Người ta còn dùng củ của cây hải hương phụ Cyperus stoloniferus Retz mọc nhiều ở bãi cát gần biển. Cây cỏ gấu là một lọai cỏ khó tiêu diệt đối với nhà nông, nhưng là một vị thuốc quý nếu biết sử dụng.
Huyết giác - 山鐵樹 (山铁树). Còn gọi là cây xó nhà, cây dứa dại, cây giáng ông. Tên khoa học Pleomele cochinchinensis Merr. (Dracaena loureiri Gagnep.). Thuộc họ Hành tỏi (Liliaceae). Huyết giác là chất gỗ màu đỏ, do một loại sâu hay nấm gây ra trên gỗ cây huyết giác già cỗi mục nát.
Huyết kiệt - 山石榴. Còn gọi là Sang dragon. Tên khoa học Calamus draco Willd. (Daemonorops draco Nred.). Thuộc họ Dừa (Palmaceae). Huyết kiệt (Resina Draconis hay Sanguis Draconis) là nhựa khô phủ trên mặt quả của một loại mây-song như Calamus draco Willd., Calamus propinquus Becc. Vì màu đỏ như máu lại khô cho nên gọi là huyết kiệt, có nơi gọi là máu rồng, cho nên châu Âu dịch nghĩ là Sang dragon (máu rồng). Vị thuốc được dùng cả trong Đông và Tây y nhưng cho đến nay đều còn phải nhập.
Hy thiêm - 豨簽 (豨莶). Còn gọi là cỏ đĩ, cứt lợn, hy kiểm thảo, hy tiên, niêm hồ thái, chư cao, hổ cao, chó đẻ, nụ áo rìa. Tên khoa học Siegesbeckia orientalis L. (S. glutinosa Wall., Minyranthes heterophylla Turcz.). Thuộc họ Cúc Asteraceae (Compositae). Cây này đầu tiên thấy dùng ở nước Sở (một nước cổ ở miền nam Trung Quốc); dân nước này gọi lợn là hy, gọi cỏ đắng cay có độc là thiêm, vì khí vị cây này như mùi lợn, do đó có tên. Chữ cứt lợn là dịch nghĩa Việt của tên cây, nhưng chỉ cần chú ý tên cứt lợn còn dùng chỉ một cây khác thuộc họ Cúc (xem vị này ở mục các thuốc chữa bệnh phụ nữ) để tránh nhầm lẫn trong khi sử dụng. Tên cỏ đĩ vì hoa cây này có chất dính, khi người ta đi qua, nó dính theo người ta. Hy thiêm thảo (Herba Siegesbeckiae) là toàn cây hy thiêm phơi hay sấy khô.
Ích mẫu - 益母草. Còn gọi là ích mẫu thảo, sung úy, chói đèn. Tên khoa học Leonurus heterophyllus Sw. Thuộc họ Hoa môi Lamiaceae (Labiatae). Cây ích mẫu cung cấp cho ta 2 vị thuốc: Ích mẫu hay ích mẫu thảo (Herba Leonuri) là toàn bộ phận trên mặt đất phơi hay sấy khô của cây ích mẫu; Sung úy tử (Fructus Leonuri) là quả chín phơi hay sấy khô của cây ích mẫu.
Ích trí nhân - 益智仁. Còn gọi là ích trí, ích trí tử. Tên khoa học Alpinia oxyphylla Miq. Thuộc họ Gừng (Zingiberaceae). Ích trí nhân (Fructus Alpiniae oxyphyllae) là quả gần chín phơi hay sấy khô của cây ích trí (Alpinia oxyphylla Miq.). Vì vị thuốc giúp ích tỳ vị cho nên có tên như thế.
Ké hoa đào - 地桃花. Còn gọi là phan thiên hoa, tiêu phan thiên hoa, nha khac mòn (Thái), bái lương, bái cúc, vái, địa đào hoa, niêm du tử, dã miên hoa. Tên khoa học Urena lobata L. (Urena monopetala Lou., Urena sinuata L., Urena scabruiscula DC.). Thuộc họ Bông (Malvaceae).
Ké hoa vàng - 白背黄花稔. Còn gọi là ké đồng tiền, bạch bối hoàng hoa nhậm, chỗi đực, khát bo lương (Thái). Tên khoa học Sida rhombifolia L. (Sida alnifolia Lour.). Thuộc họ Bông (Malvaceae).
Kê nội kim - 雞內金 (鸡内金). Còn gọi là kê hoàng bì, kê chuẩn bì, màng mề gà. Tên khoa học Corium Stomachichum Galli. Kê nội kim là lớp màng màu vàng phủ mặt trong của mề hay dạ dày con gà Gallus domesticus Brisson thuộc họ Phasianidae.
ĐỐI TÁC - LIÊN KẾT
[ Lên đầu trang ]