SÂM CAU - 仙茅
Còn gọi là ngải cau.
Tên khoa học Curculigo orchioides Gaertn.
Thuộc họ Thủy tiên (Amaryllidaceae).
Sâm cau - Curculigo orchioides
A. MÔ TẢ CÂY
Cỏ cao 40cm hay hơn, thân ngầm hình trụ dài.
Lá hình mác hẹp hai đầu nhọn, dài 15-40cm, rộng 12-35mm, cuống dài 10cm, trông gần giống lá cau.
Hoa màu vàng mọc thành từng cụm 3-5, không cuống trên một trục ngắn, nằm trong bẹ lá.
Quả nang, thuôn dài 12-15mm, hạt 1-4 phình ở đầu, phía dưới có một phần phụ hình liềm.
B. PHÂN BỐ, THU HÁI VÀ CHẾ BIẾN
Sâm cau mọc phổ biến ở nhiều tỉnh miền Bắc nước ta. Con thấy mọc cả ở Cămpuchia, Ấn Độ, Malaixia, Thái Lan, Trung Quốc và Philipin.
Một số vùng đào rễ về rửa sạch, thái mỏng phơi hay sấy khô làm thuốc. Không phải chế biến gì khác.
C. THÀNH PHẦN HÓA HỌC
Chưa thấy tài liệu nghiên cứu.
D. CÔNG DỤNG VÀ LIỀU DÙNG
Một số vùng dân tộc ít người ở nước ta dùng rễ cây này làm thuốc bổ cho nên mới gọi là sâm, rồi vì lá giống lá cau cho nên có tên sâm cau.
Tại Ấn Độ, rễ cây này cũng được coi là một vị thuốc bổ.
Ngoài ra người ta còn dùng chữa ho, trĩ, vàng da, đi ỉa lỏng, đau bụng, lậu. Dùng ngoài giã nát đắp lên nơi ghẻ, lở loét.
Uống trong: Mỗi ngày uống 6-12g dưới dạng thuốc sắc hay ngâm rượu.
Đơn thuốc có sâm cau dùng trong nhân dân:
- Chữa phong thấp, lưng lạnh đau, thần kinh suy nhược, liệt dương: Sâm cau thái mỏng, sao vàng 50g, rượu trắng 650ml. Ngâm trong vòng 7 ngày hay hơn. Mỗi ngày uống hai lần, vào trước hai bữa ăn chính, mỗi lần một chén nhỏ chừng 25-30ml.
Viết bình luận
Để thuận tiện cho việc đăng tải, xin vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.
Chúng tôi mong muốn nhận được những bình luận theo hướng mở rộng hoặc bổ sung thông tin liên quan đến bài viết.
Chúng tôi sẽ khóa những bình luận có ngôn từ mang tính kích động hoặc bất nhã.