Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu

SA NHÂN - 砂仁

Còn gọi là súc sa mật.

Tên khoa học Amomum xanthioides Wall.

Thuộc họ Gừng (Zingiberaceae).

SA NHÂN, 砂仁, súc sa mật, Amomum xanthioides Wall, họ Gừng, Zingiberaceae

Sa nhân: Quả và hạt - Amomum xanthioides

Sa nhân (Fructus et Semen Amomi xanthioidis) là quả gần chín phơi hay sấy khô của cây sa nhân (Amomum xanthioides).

Người ta còn phân biệt xác sa là quả còn cả lớp vỏ và sa nhân là khối hạt còn lại sau khi đã bóc lớp vỏ ngoài.

Vì hạt trông giống hạt sỏi, do đó có tên sa nhân; sa là cát, sỏi.

A. MÔ TẢ CÂY

Sa nhân là một loại cỏ có thể cao tới 2-3m, gần giống cây riềng nhưng thân rễ không phát triển thành củ như riềng.

Lá xanh thẫm, mặt nhẵn bóng, dài 15-35cm, rộng 4-7cm.

Hoa màu trắng đốm tía, mọc thành chùm ở gốc; từ rễ nảy ra một mầm, ngọn mang hoa gần sát mặt đất; mỗi gốc 3-6 chùm hoa, mỗi chùm 4-6 hoa.

Quả là một nang 3 ngăn, đậu vào tháng 5, chín vào tháng 7-8 (6-7 âm lịch); hình trứng, to nhất bằng đầu ngón tay cái, trung bình bằng đầu ngón tay giữa, dài 1,5 -2cm, đường kính 1-1,5cm. Mặt ngoài vỏ có gai rất đều, không có cái cao cái thấp, kẽ gai cũng đều nhau; bóp mạnh sẽ vỡ thành 3 mảnh.

Hạt dính theo lối đính phôi trung trụ.

Mùa hoa: Tháng 4-5.

B. PHÂN BỐ, THU HÁI VÀ CHẾ BIẾN

Sa nhân mọc hoang và được trồng ở nhiều tỉnh miền núi nước ta, miền Bắc cũng như miền Trung.

Còn mọc ở Căpuchia, Lào, Thái Lan, Ấn Độ.

Hằng năm trước đây toàn Việt Nam xuất chừng 250 đến 400 tấn.

Việc trồng sa nhân đã được chú ý. Người ta phát nương như để trồng ngô, trồng sắn, rồi nhổ tỉa những cây sa nhân mọc ở rừng đem về cắt bớt ngọn đi, đặt nằm gốc xuống hố; mỗi hố cách nhau chừng 0,70-0,80cm, lấp đất lên, giẫm chặt gốc, để hở ít ngọn như ta trồng mía.

Đối với sa nhân mọc hoang, muốn thu hoạch nhiều cần phát quang những khu sa nhân già để sa nhân mọc lại, đồng thời phát quang bớt những cây che kín bên trên làm cho sa nhân tốt hơn và sai quả.

Sa nhân thu hoạch vào khoảng tháng 8 dương lịch (từ 1 đến 15 tháng 7 âm lịch), có thể sớm hơn một ít. Vì thời gian thu hoạch rất ngắn, mà hái sớm hay muộn quá đều ảnh hưởng đến chất lượng của sa nhân cho nên cần theo dõi để kịp thời thu hái. Khi vỏ ngoài đã vàng thẫm, kẽ gai đã thưa, bóc ra thấy róc vỏ, bóp quả thấy còn cứng, lúc bóc ra thì hạt hơi có màu vàng, ở giữa mỗi hạt có  chấm đen hay màu hung hung, nhấm thấy chua và có chất cay nồng là sa nhân đúng tuổi hái được. Loại này người ta gọi là sa nhân hạt cau (loại tốt nhất).

Nếu để quá 5-7 ngày mới hái, quả bóc ra đã mềm, nhấm thấy ngọt chất cay đã hết, đó là sa nhân đường, kém giá trị hơn vì ít tinh dầu, khó bảo quản vì dễ ẩm mốc, cứ phơi khô để vài ngày lại bị ẩm, hạt rời vụn ra màu đen như cứt gián.

Nhưng nếu vội hái non quá, khi bóc ra hạt vẫn còn non trắng hay hơi vàng, nhấm thấy cay nhưng không chua, gọi là sa nhân non cũng kém giá trị.

Sa nhân hái về phải tãi ra phơi khô ngay, nếu không gặp nắng, phải dùng củi sấy kịp thời; tốt nhất là ngày phơi, đêm sấy, chừng 4-5 ngày thì khô. Thường mùa thu hái sa nhân hay trùng với mùa mưa cho nên cần chuẩn bị củi để sấy cho khỏi hỏng.

Thường 10kg sa nhân đầu mùa phơi được 1.8kg sa nhân vỏ (sa nhân xác); nếu hái đúng tuổi có khi được tới 2kg.

Nếu sa nhân hái về không kịp phơi khô ngay sẽ dẽ bị thối nát, màu ngả đen như cứt gián.

Khi sa nhân khô kiệt rồi nếu bóc vỏ trước khi phơi sấy thì tinh dầu bốc đi mất, dễ vỡ vụn và cũng kém giá trị.

Muốn bóc vỏ, dùng dao con hay dùi nhỏ chọc mũi vào vỏ sa nhân, cho đỡ đau tay. Mỗi kg sa nhân vỏ bóc được từ 0,700 đến 0,800 kg sa nhân hạt.

Tùy theo thời  kỳ thu hái và phơi sấy, thường người ta phân ra làm nhiều loại:

   1. Sa nhân hạt cau là loại tốt nhất, có hạt to mẩy, khi hạt khô không bị nhăn nheo. Màu nâu sẫm, cứng, nhấm cay nhiều, nồng.

   2. Sa nhân non là loại 2, hạt không mẩy, có vết nhăn nheo, màu vàng răng ngựa, nhấm ít cay.

   3. Sa nhân vụn là loại 3, gồm những quả sa nhân đường, non vỡ ra hoặc do không được phơi sấy đúng phép, còn gọi là sa nhân cứt gián, kém cay.

   4. Sa nhân đường là loại 4, sờ tay thấy ẩm hơi dính, nhấm hơi ngọt, mềm, màu đen.

C. THÀNH PHẦN HÓA HỌC

Trong sa nhân có chừng 2-3% tinh dầu. Thành phần chủ yếu của tinh dầu là d.bocneola (19%), d.campho (33%), axetat bocnyla (26,5%), d.limonen (7%), camphen (7%), phelandren (2,3%), parametoxyetylxinamat (1%), pinen (1,8%), linalola, nerolidola...

Năm 1958, hệ dược Viện y học Bắc Kinh có nghiên cứu thấy trong loài sa nhân Amomum villosum Lour. có saponin với tỷ lệ 0,69%.

D. CÔNG DỤNG VÀ LIỀU DÙNG

Sa nhân là một vị thuốc kích thích và giúp sự tiêu hóa, thường dùng làm gia vị và chế rượu mùi.

Về căn bản, sa nhân mới thấy dùng trong phạm vi đông y.

Theo tài liệu cổ: Sa nhân có vị cay, tính ôn, vào các kinh Tỳ, Thận và Vị; có tác dụng hành khí, điều trung, hòa vị, làm cho tiêu hóa được dễ dàng. Dùng trong những trường hợp đau bụng, đầy bụng, ăn không tiêu, tả lỵ.

Hiện nay ngoài công dụng như trên, sa nhân được xuất sang một số nước dùng làm gia vị.

Liều dùng hàng ngày: 1 đến 3g dưới dạng thuốc viên, thuốc sắc.

Đơn thuốc có sa nhân dùng trong đông y:

   - Răng đau nhức: Ngậm sa nhân.

   - Bài thuốc chữa ăn uống không tiêu, nôn mửa, bụng đầy, đau (hương sa chỉ truật hoàn): Sa nhân 4g, mộc hương 6g, chỉ thực 6g, bạch truật 4g, các vị tán  nhỏ, dùng nước sắc bạc hà nấu với gạo làm hồ viên thành viên, mỗi viên nặng 0,25g; ngày uống 2 hay 3 viên.

Ở miền Bắc nước ta chỉ khai thác để dùng trong nước và xuất loại sa nhân nói trên.

Ngoài 2 cây dương xuân sa và sa nhân nói trên, tại Trung Quốc người ta còn  khai thác một số cây khác với tên sa nhân, ví dụ:

   1. Sa nhân Hải Nam là một quả một loài Amomum sp. ở đảo Hải Nam.

   2. Thổ sa nhân ở Hải Nam là quả của một loài Amomum sinensis Rosc.

   3. Thổ sa nhân ở Phúc Kiến là quả của loài Alpinia japonica Miq. tên gọi ở  địa phương là hòa sơn khương, có quả ở trên ngọn của thân mang lá, khác những cây trên có quả trên một trục riêng ở sát mặt đất.

Nguồn: Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tác giả: Giáo sư Tiến sĩ khoa học ĐỖ TẤT LỢI



Xin vui lòng ghi rõ nguồn http://www.dotatloi.com khi phát hành lại thông tin.


Tuyên bố miễn trừ trách nhiệm:
Thông tin trên www.dotatloi.com chỉ phục vụ nghiên cứu học tập và mở rộng kiến thức. Không sử dụng làm căn cứ để tiến hành chẩn trị trên lâm sàng. Thông tin trên www.dotatloi.com có thể được trích dẫn, thu thập từ các ấn phẩm, các trang tin điện tử liên quan trong nước và ngoài nước. Nếu phát sinh vấn đề bản quyền, kính đề nghị phản hồi cho chúng tôi.

Viết bình luận

Để thuận tiện cho việc đăng tải, xin vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.
Chúng tôi mong muốn nhận được những bình luận theo hướng mở rộng hoặc bổ sung thông tin liên quan đến bài viết.
Chúng tôi sẽ khóa những bình luận có ngôn từ mang tính kích động hoặc bất nhã.

focus Mướp đắng
14/04/2025 01:59 SA

- 苦瓜. Còn gọi là khổ qua, cẩm lệ chi, lại bồ đào, hồng cô nương, lương qua, mướp mủ, chua hao (Mường-Thanh Hóa). Tên khoa học Momordica charantia L. (Momordica balsamina Desc., Cucumis africanus Lindl.). Thuộc họ Bầu bí (Cucurbitaceae).

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu
Tên vị thuốc Mô tả
Trầu không - 蒟醬 (蒟酱). Còn gọi là trầu, thược tương, mô-lu (Cămpuchia), hruè êhang (Buôn Mê Thuột). Tên khoa học Piper betle L. (Piper siriboa L.). Thuộc họ Hồ tiêu (Piperaceae).
Trinh nữ hoàng cung - 西南文殊蘭 (西南文殊兰). Còn gọi là Hoàng cung trinh nữ - Tây nam văn châu lan - Thập bát học sĩ (Trung Quốc), Tỏi Thái Lan. Tên khoa học Crinum latifolium L. Thuộc họ Thuỷ tiên Amaryllidaceae. Tên trinh nữ hoàng cung do cây này được dùng để trị bệnh cho những phụ nữ còn trinh tiết được tuyển chọn vào cung vua nhưng không được vua chú ý nên mắc một số bệnh riêng của những phụ nữ sống trong cùng hoàn cảnh.
Trúc nhự - 竹茹. Còn gọi là trúc nhị thanh, đạm trúc nhự. Tên khoa học Caulis Bvambusae in Taeniis. Trúc nhự là vị thuốc chế bằng cách cạo vỏ xanh của cây tre (Bambusa sp.), cây vầu (Phyllostachys sp.) và nhiều loại tre bương khác thuộc họ Lúa (Gramineae), sau đó cạo lớp thân thành từng mảnh mỏng hay sợi mỏng, rồi phơi hay sấy khô.
Trứng cuốc - 斑果藤. Còn có tên là mắc năm ngoa (Viêntian), con go, mang nam bo (Thổ). Tên khoa học Stixis elongata Pierre. Thuộc họ Màn màn (Capparidaceae).
Tử uyển - 紫菀. Còn gọi là thanh uyển, dã ngưu bàng. Tên khoa học Aster tataricus L. Thuộc họ Cúc Asteraceae (Compositae). Tử uyển (Radix Asteris) lá rễ và thân phơi hay sấy khô của cây tử uyển. Từ là tía, uyển là mềm; vì tử uyển là một vị thuốc có màu tím lại mềm.
Tục tùy tử - 續隨子 (续随子). Còn gọi là Thiên kim tử. Tên khoa học Euphorbia lathyris Lin. Thuộc họ thầu dầu (Euphorbiaceae).
Tùng hương - 松香. Còn gọi là tùng chi, tùng cao, tùng giao. Tên khoa học Resina Pini - Colophonium. Tùng hương hay tùng chi là phần đặc còn lại sau khi cất nhựa thông với nước.
Tỳ giải - 萆薢. Còn gọi là xuyên tỳ giải, tất giã, phấn tỳ giải. Tên khoa học Dioscorea tokoro Makino. Thuộc họ Củ nâu (Dioscoreaceae). Tỳ giải (Rhizoma Dioscoreae) là thân rễ phơi hay sấy khô của cây tỳ giải.
Tỷ giải - 萆薢. Còn gọi là xuyên tỳ giải, tất giã, phấn tỳ giải. Tên khoa học Dioscorea tokoro Makino. Thuộc họ Củ nâu (Dioscoreaceae). Tỳ giải (Rhizoma Dioscoreae) là thân rễ phơi hay sấy khô của cây tỳ giải.
Vải - 荔枝. Còn gọi là quả vải, lệ chi, phle kulen (Campuchia). Tên khoa học Litchi sinensis Radlk. (Nephelium litchi Cambess, Euphoria litchi Desf). Thuộc họ Bồ hòn (Sapindaceae).
Vạn niên thanh - 萬年青 (万年青). Còn gọi là thiên niên vận, đông bất điêu thảo, cửu tiết liên. Tên khoa học Rhodea japonica Roth. Thuộc họ Hành tỏi (Liliaceae). Cần chú ý ngay rằng tên vạn niên thanh ở nước ta thường dùng để gọi nhiều cây khác nhau. Cây vạn niên thanh ta trông làm cảnh là cây Aglaonema siamense Engl, thuộc họ Ráy (Araceae). Còn cây vạn niên thanh giới thiệu ở đây thuộc họ Hành tỏi, hiện chúng tôi chưa thấy trồng ở nước ta, nhưng giới thiệu ở đây để tránh nhầm lẫn.
Vạn niên thanh - 萬年青 (万年青). Còn gọi là co vo dinh (Thổ), han phan (Lào), kom ponh (Cămpuchia). Tên khoa học Aglaonema siamense Engl. Thuộc họ Ráy (Araceae).
Vạn tuế - 蘇鐵 (苏铁). Còn gọi là thiết thụ, phong mao tùng, phong mao tiêu. Tên khoa học Cycas revoluta Thunb. Thuộc họ Tuế (Cycadaceae).
Vàng đằng Còn gọi là dây đằng giang, hoàng đằng, hoàng đằng lá trắng, dây khai, vàng đắng. Tên khoa học Coscinium usitatum Pierre. Thuộc họ Tiết dê (Menispermaceae).
Viễn chí - 遠志 (远志). Còn gọi là tiểu thảo, nam viễn chí. Tên khoa học Polygala sp. Thuộc họ Viễn chí (Polygalaceae). Viễn chí là rễ khô của cây viễn chí lá nhỏ (Polygala tenuifolia Willd.) hoặc cây viễn chí Xibêri (Polygala sibirica L.) đều thuộc họ Viễn chí (Polygalaceae). Chữ Polygala do chữ Polys là nhiều, gala là sữa vì bò ăn cây này có nhiều sữa. Tenuifolia = lá nhỏ. Tên viễn chí là do người xưa cho rằng uống vị thuốc này làm cho người ta bền trí nhớ lâu. Ở nước ta theo các tài liệu, có nhiều cây thuộc chi Polygala.
Vỏ lựu - 石榴皮. Tức là vỏ cây quả cây thạch lựu Pericarpium granati (đã nói ở trên - mục thuốc trị giun sán). Trong vỏ quả lựu chứa chừng 28% chất tanin và chất màu. Các chất này có tính chất làm săn da và sát khuẩn mạnh.
Vối - 水榕, 水翁. Tên khoa học Cleistocalyx opercultus (Roxb). Merr et Perry (Eugenia operculata Roxb., Syzygium nervosum DC.). Thuộc họ Sim (Myrtaceae).
Vọng cách - 傘序臭黃荊 (伞序臭黄荆). Còn gọi là bọng cách, cách. Tên khoa học Premna integrifolia L. (Gumira littorea Rumph.). Thuộc họ Cỏ roi ngựa (Verbenaceae).
ĐỐI TÁC - LIÊN KẾT
[ Lên đầu trang ]