Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu

NỌC ONG - 蜂毒

Apitoxin

Nọc ong là một vị thuốc được nhân dân nhiều nước châu Á và châu Âu biết dùng từ lâu để chữa nhiều bệnh khác nhau.

Nọc ong là sản phẩm của những tuyến đặc biệt trong cơ thể con ong, muốn dùng nọc ong trước đây người ta cho con ong đốt, hay có khi người ta uống con ong, gần đây người ta lấy nọc ong riêng rồi chế thành thuốc với những dạng khác nhau như nhũ dịch, dầu bôi có nọc ong, thuốc tiêm dưới da, di chuyển ion (ionphorese).

Muốn lấy nọc ong hàng loạt, người ta thường kích thích con ong bằng cách giết chết một con ong, đặt lên một màng mỏng có dòng điện, khi những con ong khác đậu vào bị dòng điện kích thích sẽ "đốt " màng mỏng. Nọc chảy ra người ta hứng lấy để chế thuốc.

A. TÍNH CHẤT CỦA NỌC ONG

Nọc ong là một chất lỏng rất sánh, không mùa, mùi rất đặc biệt na ná như mùi mật ong, vị bỏng đắng. Tỷ trọng 1,131, phản ứng axit, trong nứoc có pH 4,5-5,5; trong không khí nọc ong chóng khô, lượng cao khô trong nọc ong chừng 41%.

Ở dạng khô, nọc ong giữ nguyên tính chất căn bản một thời gian dài.

Trong dung dịch nước (pha loãng 0,1-1%) nọc ong bị phá hủy dần.

B. THÀNH PHẦN HÓA HỌC CỦA NỌC ONG

Thành phần hóa học của nọc ong rất phức tạp.

Người ta mới biết trong nọc ong có:

   - Phần abumin và chất mỡ.

   - Phần hợp chất hữu cơ có trọng lượng phân tử thấp.

   - Các axit amin tự do: Xystin, lysin, acginin, glycocol, alanin, methionin, axit glutamic, treonin, leuxin, isoleuxin.

   - Các axit nucleic (desoxyribonucleic và ribonucleic).

   - Các axit muravic, ortophotphoric.

   - Chất béo và các chất có cấu tạo steroit.

   - Tinh dầu.

   - Các men hialuronidaza và photpholipaza A.

   - Chất vô cơ, magiê, đồng.

Các nhà nghiên cứu Đức, Nâyman và Khabecman đã tách được phần abumin có tác dụng gọi là melitin, trọng lượng phân tử khoảng 35.000. Melitin bền vững ở nhiệt độ thấp và cả ở nhiệt độ cao, không bị môi trường axit mạnh phá hủy nhưng dễ bị phá hủy ở môi trường kiềm.

Nghiên cứu thành phần vô cơ của nọc ong, nhà nghiên cứu Liên Xô cũ, Actêmov đã thấy trong tro của nọc ong có 0,4% magiê, ít đồng nhưng hoàn toàn không thấy những kim loại khác như Na, K, Fe thường thấy trong những hợp chất sinh vật  khác.

Trong axit hữu cơ tự do và amin, có chừng 1% histamin.

C. TÁC DỤNG DƯỢC LÝ CỦA NỌC ONG

Tác dụng dược lý có quan hệ nhiều đến melitin, làm tan hồng cầu, có các cơ trơn và cơ vân, hạ huyết áp phong bế một đoạn thần kinh trung ương và ngoại vi, tác dụng lên thành các mạch máu, gây viêm tại chỗ.

Men Hialurodinaza làm tan các chất căn bản của tổ chức liên kết thúc đẩy sự lan truyền của nọc độc, ở trong da và đẩy mạnh tác dụng tại chỗ.

Men photpholipaza phân hủy lexitin và tạo thành lisoxitin có khả năng dung giải các tế bào và làm dung huyết một cách gián tiếp: Người ta còn cho photpholipaza làm trì hoãn hoạt động của thủy phân của các tổ chức và của thrombokinaza, trên cơ sở này người ta cắt nghĩa hiện tượng nọc ong hạ thấp độ đông của máu.

Nhiệt độ cao chỉ phá hủy các men của nọc ong, mà không tác dụng với melitin: Melitin rất vững đối với nhiệt độ và đối với cả môi trường axit mạnh nhưng dễ bị phá hủy trong môi trường kiềm mạnh.

Các nhân tố oxi hóa làm giảm tác dụng của nọc ong, các men dung giả protein, pepsin, trypsin phong bế hoàn toàn hoàn toàn nọc ong, phá hủy abumin của nọc ong là chất có tác dụng cơ bản trong nọc ong.

D. TÁC DỤNG TRÊN CƠ THỂ NGƯỜI

Nọc ong có tác dụng thay đổi tùy theo liều cao thấp, nơi bị đốt và đặc biệt cảm ứng riêng của từng cơ thể.

Phụ nữ và trẻ em thường nhạy cảm đối với nọc ong hơn nam giới.

Đối với người có tính cảm ứng bình thường, ong đốt 1, 2 lần chỉ gây phản ứng viêm tại chỗ, đối với người bị ong đốt nhiều lần như những người nuôi ong, có thể xuất hiện sức đề kháng cao.

Tại chỗ, nọc ong thường gây đỏ, sưng, cảm giác đau, xuất hiện đột ngột, có cảm giác như bị bỏng, có thể sốt, nhiệt độ tăng hơn bình thường 2 đến 5ºC. Với liều cao hơn (bị chừng 50 đến 200 con ong đốt một lúc có thể nằm liệt giường, ngay sau khi bị đốt, nạn nhân thấy chóng mặt, buồn nôn, chảy nước bọt, mồ hôi ra nhiều, rồi nôn mửa, rối loạn đường ruột, bất tỉnh nhân sự, huyết áp hạ xuống, có những dấu hiệu tan các hồng cầu.

Tuy nhiên ít gặp người nào chết do ong đốt, vì liều chết vào khoảng khi bị 1.000 con ong đốt một lúc. Chết do liệt trung tâm hô hấp.

Với liều vừa đúng, tùy theo từng người, nọc ong có tác dụng chữa bệnh, liều độc so với liều điều trị thường gấp hàng chục lần, và liều chết gấp 100 lần liều điều trị.

Nọc ong làm dãn động mạch và các mao quản, tăng cường sự thâm nhập của máu đến cơ quan bị thương, làm giảm đau. Đối với hệ thống tuần hoàn, nọc ong nâng cao số lượng hemoglobin, bạch cầu ở địa phương và toàn thân, tốc độ hạ huyết trầm hạ thấp, độ nhớt và độ đông máu nhỏ hơn. Nọc ong kích thích cơ tim, hạ huyết áp, ảnh hưởng tới dinh dưỡng, đặc biệt làm giảm cholestetol trong máu.

Nọc ong nâng cao sức lực toàn thân và khả năng làm việc, làm cho ăn ngủ tốt  hơn.

E. CÔNG DỤNG VÀ LIỀU DÙNG

Nọc ong được dùng điều trị có hiệu quả trong nhiều bệnh, những bệnh nặng và kéo dài, đôi khi khó chữa, như sưng khớp do thấp, bệnh thấp cơ, sưng khớp truyền nhiễm không đặc hiệu, suyễn, viêm khí quản, nhức đầu, huyết áp cao ở giai đoạn 1 và 2.

Tuy nhiên nọc ong không dùng được đối với bệnh lao, bệnh gan và tuyến tụy tạng, bệnh thận kèm đái ra máu, bệnh tuyến thượng thận, suy nhược toàn thân, bệnh máu và các tổ chức tạo máu với khuynh hướng làm chảy máu.

Phụ nữ có thai không điều trị bằng nọc ong.

Có người dùng tiêm nọc ong phối hợp với châm cứu (tiêm vào các huyệt).

Nguồn: Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tác giả: Giáo sư Tiến sĩ khoa học ĐỖ TẤT LỢI



Xin vui lòng ghi rõ nguồn http://www.dotatloi.com khi phát hành lại thông tin.


Tuyên bố miễn trừ trách nhiệm:
Thông tin trên www.dotatloi.com chỉ phục vụ nghiên cứu học tập và mở rộng kiến thức. Không sử dụng làm căn cứ để tiến hành chẩn trị trên lâm sàng. Thông tin trên www.dotatloi.com có thể được trích dẫn, thu thập từ các ấn phẩm, các trang tin điện tử liên quan trong nước và ngoài nước. Nếu phát sinh vấn đề bản quyền, kính đề nghị phản hồi cho chúng tôi.

Viết bình luận

Để thuận tiện cho việc đăng tải, xin vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.
Chúng tôi mong muốn nhận được những bình luận theo hướng mở rộng hoặc bổ sung thông tin liên quan đến bài viết.
Chúng tôi sẽ khóa những bình luận có ngôn từ mang tính kích động hoặc bất nhã.

focus Lêkima
11/06/2025 07:56 CH

- 蛋黄果. Còn gọi là lu cu ma, sapotille mamey, sapotille Mamey, sapote Mamey. Tên khoa học Lucuma mammosa Gaertn.; Vitellaria mammosa Radik.; Calocarpum mammosum Pierre. Thuộc họ Hồng xiêm (Sapotaceae).

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu
Tên vị thuốc Mô tả
Vọng cách - 傘序臭黃荊 (伞序臭黄荆). Còn gọi là bọng cách, cách. Tên khoa học Premna integrifolia L. (Gumira littorea Rumph.). Thuộc họ Cỏ roi ngựa (Verbenaceae).
Vọng giang nam - 望江南. Còn gọi là cốt khí muồng, dương giác đậu, giang nam đậu, thạch quyết minh, sơn lục đậu, dã biển đậu, muồng hòa (miền Nam), muống lá khế. Tên khoa học Cassia occidentalsi L. Thuộc họ Vang (Caesalpiiaceae).
Vông vang - 黄葵. Còn gọi là bông vang, ambrette, ketmiemusquée. Tên khoa học Hibiscus abelmoschus L. (Abelmoschus moschatus Moench.). Thuộc họ Bông (Malvaceae).
Vú bò - 山榕. Còn gọi là vú chó. Tên khoa học Ficus heterophyllus L. Thuộc họ Dâu tằm (Moraceae).
Vú sữa - 星萍果. Còn gọi là caimiteer, cahimitir. Tên khoa học Chrysophyllum cainiti L. Thuộc họ Hồng xiêm (Sapotaceae).
Vừng - 芝麻. Còn gọi là mè, du tử miêu, cự thắng tử, chi ma, bắc chi ma, hồ ma. Tên khoa học Sesamum orientale L. Sesamum indicum Dc. Sesamum lutrum Retz. Thuộc họ Vừng (Pedaliaceae). Vừng và vừng đen (Semen Sesami) là vừng của rợ Hồ (tên cổ người Trung Quốc gọi nước Ấn Độ) do đó có trên hồ ma là vừng của người Hồ (Ma là vừng).
Vuốt hùm - 南蛇竻. Còn có tên là móc mèo, móc diều, trầu sa lực. Tên khoa học Caesalpinia minax Hance. Thuộc họ Vang (Caesalpiniaceae).
Xạ can - 射干. Còn gọi là cây rẻ quạt, la cho (Lang-biang), Iris tigré. Tên khoa học Belamcanda sinensis (L) DC. (Pardanthus sinensis Ker., Ixia sinensis Murr.). Thuộc họ Lay ơn (Iridaceae). Xạ can (Rhizoma Belamcandae) là thân rễ phơi hay sấy khô của cây rẻ quạt.
Xích thược - 赤芍. Xích thược Radix Paeonae rubrae là rễ phơi hay sấy khô của 3 loài thược dược: Thược dược (Paeonia lactiflora Pall.); Thảo thược dược (Paeonia obovata Maxim.); Xuyên xích thược (Paeonia veichii Lynch). Tất cả xích thược đều do cây mọc hoang cung cấp. Vào các tháng 3-5 hay các tháng 5-10 đào về, trừ bỏ thân rễ và rễ nhỏ, chia thành từng rễ to nhỏ riêng biệt, rửa sạch đất cát; phơi khô là được.
Xoài - 杧果. Còn gọi là muỗm, swai (Cămpuchia), makmouang (Viêntian), manguier. Tên khoa học Mangifera indica L. Thuộc họ Đào lộn hột (Anacardiaceae).
Xoan Còn gọi là sầu đâu, xoan trắng, xuyên luyện, khổ luyện, đốc hiên, sđâu (Cămpuchia), lilas du Jappon, lilas des Indes, laurier grec, faux sycomore. Tên khoa học Melia azedarach L. Thuộc họ Xoan (Meliaceae). Ta dùng vỏ thân, vỏ cành to và vỏ rễ phơi khô hay sấy khô của cây xoan - Cortex Meliae. Vỏ rễ tốt hơn.
Xoan nhừ - 南酸棗 (南酸枣). Còn gọi là xoan trà, nhừ, xoan rừng, lát xoan, xuyên cóc, nam toan táo (Trung Quốc). Tên khoa học Choerospondias axillaris (Roxb.) Burtt et Hill (Spondias axillaris Roxb.). Thuộc họ đào lộn hột (Anaardiaceae).
Xương bồ - 菖蒲. Còn gọi là thạch xương bồ, thuỷ xương bồ. Tên khoa học Acorus gramineus Soland: Acorus calamus L. Thuộc họ Ráy (Araceae). Thạch xương bồ (Rhizoma Acoricalami) là thân rễ phơi khô của cây thạch xương bồ Acorus gramineus Soland. Thuỷ xương bồ (Rhizoma Acoricalami) là thân rễ phơi khô của cây thuỷ xương bồ Acorus calamus L. Xương là phồn thịnh, bồ là một thứ cỏ; xương bồ là một thứ cỏ bồ mọc chi chít.
Xương khô - 綠玉樹 (绿玉树). Còn gọi là lục ngọc thụ, quang côn thụ, thanh san hô, san hô xanh, cành giao. Tên khoa học Euphorbia tirucalli L. (E. viminalis Mill. E. rhipsaloides Lem.). Thuộc họ Thầu dầu (Euphorbiaceae).
Xương rồng - 火殃勒. Còn gọi là bá vương tiêm, hóa ương lặc. Tên khoa học Euphorbia antiquorum L. Thuộc họ Thầu dầu (Euphorbiaceae).
Xương sông - 千頭艾納香 (千头艾纳香). Còn gọi là rau súng ăn gỏi, xang sông, hoạt lộc thảo. Tên khoa học Blumea myriocephala DC. Conyza lanceolaria Roxb. Gorteria setosa Lour. (non L.). Thuộc họ Cúc Asteraceae (Compositae).
Xuyên khung - 川芎. Còn gọi là khung cùng, tang ky. Tên khoa học Ligusticum wallichii Franch. Thuộc họ Hoa Tán Apiaceae (Umblliferae). Xuyên khung (Rhizoma Ligustici wallichii ) là thân rễ phơi hay sấy khô của cây xuyên khung. Trong con người, cái đầu được coi là bộ phận cao nhất, như vòm trời. Vị thuốc này chuyên trị các chứng về đầu, não, do đó có tên (khung: cao; cùng: chỗ cuối cùng). Tên xuyên khung vì vị thuốc nguồn gốc ở tỉnh Tứ Xuyên. Hiện đã di thực được vào nước ta.
Ý dĩ - 薏苡仁. Còn gọi là dĩ mễ, dĩ nhân, ý dĩ nhân, hạt bo bo, bo bo. Tên khoa học Coix lachryma-jobi L. Thuộc họ lúa Poaceae (Gramineae). Ý dĩ, ý dĩ nhân (Semen Coicis) là nhân đã loại vỏ phơi hay sấy khô của cây ý dĩ.
ĐỐI TÁC - LIÊN KẾT
[ Lên đầu trang ]