Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu

NHỤC ĐẬU KHẤU - 肉豆蔻

Còn gọi là nhục quả, ngọc quả, muscade, noix de muscade.

Tên khoa học Myristica fragrans Houtt.

Thuộc họ Nhục đậu khấu (Myristicaceae).

NHỤC ĐẬU KHẤU, 肉豆蔻, nhục quả, ngọc quả, muscade, noix de muscade, Myristica fragrans Houtt., họ Nhục đậu khấu, Myristicaceae

Nhục đậu khấu - Myristica fragrans

Cây nhục đậu khấu cho ta các vị thuốc sau đây:

   1. Nhục đậu khấu (Semen Myristicae) là nhân phơi hay sấy khô của cây nhục đậu khấu.

   2. Ngọc quả hoa còn gọi là nhục đậu khấu y (Arillus Myristicae hay Macis) là áo của hạt nhục đậu khấu phơi hay sấy khô.

A. MÔ TẢ CÂY

Nhục đậu khấu là một cây to, cao 8-10m. Toàn thân nhẵn.

Lá mọc so le, xanh tươi quanh năm, dai; phiến lá hình mác rộng, dài 5-15cm, rộng 3-7cm, mép nguyên; cuống lá dài 7-12mm.

Hoa khác gốc mọc thành xim ở kẽ lá, có dáng tán. Màu hoa vàng trắng.

Quả hạch, hình cầu hay quả lê, màu vàng, đường kính 5-8cm, khi chín nở theo chiều dọc thành 2 mảnh; trong có một hạt có vỏ dày cứng, bao bọc bởi một áo hạt bị rách, màu hồng.

B. PHÂN BỐ, THU HÁI VÀ CHẾ BIẾN

Cây nhục đậu khấu được trồng ở miền Nam Việt Nam và Campuchia. Còn mọc ở Inđônêxia, Malaixia, tây Ấn Độ, đã di thực được vào tỉnh Quảng Đông, miền nam Trung Quốc, giáp giới miền Bắc Việt Nam ta.

Trồng được 7 năm thì bắt đầu thu hoạch. Mỗi năm có thể thu hoạch 2 lần, một lần vào các tháng 11-12 và một lần vào các tháng 4-6. Khi đã bắt đầu thu hoạch thì có thể thu hoạch luôn trong vòng 60-75 năm. Mức thu hoạch cao nhất vào năm thứ 25. Từ năm thứ 10 đến năm thứ 25 hằng năm mỗi cây cho từ 1500 đến 2000 quả, nghĩa là chừng 8-10kg.

Sau khi hái quả, loại bỏ vỏ quả. Sau đó lấy riêng áo hạt, ngâm muối rồi phơi hay sấy khô. Hạch đem sấy lửa nhẹ (60o) cho đến khi lắc lên thấy kêu lóc cóc (thường việc sấy này kéo dài tới 2 tháng) thì đem đập lấy nhân, phân loại to nhỏ rồi ngâm nước vôi, sau đó phơi hay sấy lại.

Việc ngâm nước vôi này có mục đích để tránh bị sâu bọ mối mọt. Người ta phân loại nhục đậu kháu căn cứ vào to nhỏ, ví dụ 65, 80, 110 cho một bảng Anh (đơn vị trọng lượng). Càng ít nhân mà đã nặng bằng 1 bảng Anh là càng tốt.

C. THÀNH PHẦN HÓA HỌC

Nhục đậu khấu có chứa tinh bột, chất protit, chừng 40% chất béo đặc gọi là bơ nhục đậu khấu (Beurre de muscade), 8-15% tinh dầu và 3-4% chất nhựa.

Tinh dầu nhục đậu khấu là một chất lỏng không màu hay hơi vàng nhạt, mùi thơm, vị nóng, gồm một hỗn hợp các chất pinen và camphen quay phải (80%), dipenten (8%), cồn tecpenic (linalol, bocneol, tecpineol và geraniol) 6%, một ít eugenol và safrol, chất myristixin (4%) v.v...

IMG

Myristixin có công thức C11H12O3 có tinh thể màu vàng, có độc.

Tỷ trọng 0,870 - 0,925; năng suất quay cực phải (α)D +16o đến +30o. Tan trong một thể tích cồn 90o; độ sôi 115oC đến 300oC. Nhục đậu khấu phải cho 25% cao ête, nhiều nhất 5% tro toàn bộ và nhiều nhất 0,50% tro không tan trong HCl.

Nhục đậu khấu y hay ngọc quả hoa chứa 8% tinh dầu, chất nhựa và chất pectin. Tinh dầu không màu hay đỏ nhạt, rất lỏng, quay phải, mùi vị nồng giống như nhục đậu khấu, cất theo ở nhiệt độ 155oC đến 183oC.

Bơ nhục đậu khấu (beurre de muscade) chứa chừng 70-75% myristin. Ta có thể tách myristin ra dễ dàng do myristin ít tan trong cồn lạnh. Ngoài ra còn 10-20% olein, 1% butyrin, axit loric, 1-2% axit panmitic, 7-8% stearin và 1% axit linoleic. Trong bơ nhục đậu khấu còn có 2-3% tinh dầu làm cho bơ có mùi thơm, nhựa, chất màu, chừng 18,7% chất không xà phòng hóa được.

Myristin xà phòng hóa sẽ cho axit myristic và glyxerin. Axit myristic là một chất béo trắng cứng, không mùi, màu trắng, có thể có tinh thể.

D. TÁC DỤNG DƯỢC LÝ

Nhục đậu khấu và ngọc quả hoa đều là những vi thuốc thơm, có tác dụng kích thích. Được dùng trong cả đông y và tây y. Nhưng dùng với liều cao thì có thể gây độc: Dùng nguyên cả một hạt đã có hiện tượng độc. Sau một thời gian kích thích ngắn, có hiện tượng mệt mỏi trì độn và ngủ gà.

Purkinje đã cảm thấy một hiện tượng tê mê sau khi dùng nhục đậu khấu. Theo Leclerc đã có nhiều trường hợp ngộ độc xảy ra ở Anh và Mỹ, trong đó có một trường hợp chết người với hiện tượng dãn đồng tử như khi bị ngộ độc do benladôn.

Dùng ít thì xúc tiến sự bài tiết dịch vị, giúp sự tiêu hóa; kích thích nhu động ruột, gây ăn ngon nhưng uống nhiều quá sẽ làm say tê, có khi tiểu tiện ra huyết rồi chết.

Đông y ghi tính chất của nhục đậu khấu là vị cay, tính ôn, hơi độc; vào 3 kinh Tỳ, Vị và Đại trường có năng lực ôn tỳ, sáp tràng, chỉ nôn, chỉ tả lỵ, tiêu thực, chữa lạnh bụng, đau bụng, đầy chướng. Phàm nhiệt tả, nhiệt lỵ và bệnh mới phát chớ có dùng.

E. CÔNG DỤNG VÀ LIỀU DÙNG

Nhục đậu khấu là một vị thuốc dùng để kích thích tiêu hóa, làm thuốc kích thích chung trong các trường hợp kém ăn, sốt rét.

Dùng dưới dạng bột hay dạng thuốc viên. Ngày uống 0,25 đến 0,50g. Có khi có thể dùng 2 đến 4g. Nhưng dùng liều quá cao có thể gây độc.

Bơ đậu khấu dùng xoa bóp ngoài chữa tê thấp, đau người.

Ngọc quả hoa dùng như nhục đậu khấu.

Đơn thuốc có nhục đậu khấu:

   1. Chữa bệnh kém ăn, ăn uống không tiêu: Nhục đậu khấu 0,50g, nhục quế 0,50g, đinh hương 0,20g, tất cả tán thành bột, trộn với đường sữa 1g. Chia làm 3 gói, ngày uống 3 lần, mỗi lần 1 gói.

   2. Thuốc giúp sự tiêu hóa, kém ăn, nôn mửa, đau bụng: Quế tán thành bột 100g, nhục đậu khấu tán thành bột 80g, đinh hương tán bột 40g, sa nhân 30g tán bột, canxi cacbonnat bột 250g, đường 500g tán nhỏ. Tất cả trộn đều. Ngày dùng 0,50g đến 4g bột này.

Để thêm tác dụng có thể pha vào bột trên một ít bột thuốc phiện theo tỷ lệ như sau: Bột chế như trên 975g, bột thuốc phiện 25g. Tất cả trộn đều. Dùng liều lượng như trên trong các trường hợp đau bụng, đi lỵ. Dùng cẩn thận vì có thuốc phiện.

Nguồn: Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tác giả: Giáo sư Tiến sĩ khoa học ĐỖ TẤT LỢI



Xin vui lòng ghi rõ nguồn http://www.dotatloi.com khi phát hành lại thông tin.


Tuyên bố miễn trừ trách nhiệm:
Thông tin trên www.dotatloi.com chỉ phục vụ nghiên cứu học tập và mở rộng kiến thức. Không sử dụng làm căn cứ để tiến hành chẩn trị trên lâm sàng. Thông tin trên www.dotatloi.com có thể được trích dẫn, thu thập từ các ấn phẩm, các trang tin điện tử liên quan trong nước và ngoài nước. Nếu phát sinh vấn đề bản quyền, kính đề nghị phản hồi cho chúng tôi.

Viết bình luận

Để thuận tiện cho việc đăng tải, xin vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.
Chúng tôi mong muốn nhận được những bình luận theo hướng mở rộng hoặc bổ sung thông tin liên quan đến bài viết.
Chúng tôi sẽ khóa những bình luận có ngôn từ mang tính kích động hoặc bất nhã.

Mật đà tăng
06/07/2025 08:49 CH

- 密陀僧. Còn gọi là đà tăng, kim đà tăng, lô đê. Tên khoa học Lithargyrum. Mật đà tăng là tiếng Ấn Độ phiên âm. Nguyên là dư phẩm của việc chế biến bạc, thường thấy ở đáy lò nấu bạc.

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu
Tên vị thuốc Mô tả
Lộc giác - 鹿角. Còn gọi gạc hươi nai. Tên khoa học Cornu Cervi.
Lộc mại - 丢了棒. Còn gọi là rau mọi, lục mại. Tên khoa học Mercurialis indica Lour. Thuộc họ Thầu dầu (Euphorbiaceae).
Lộc nhung, mê nhung - 鹿茸, 麋茸. Còn gọi là nhưng hươu, nhung nai. Tên khoa học Cornu Cervi parvum. Lộc nhung hay mê nhung (Cornu Cervi parvum) là sừng non của con hươu (lộc) Cervus nippon Temminck, hoặc con nai (mê) Cervus unicolr Cuv. đực được chế biến mà thành. Cả hai con đều thuộc ngành có xương sống Vertebrata, lớp có vú Mammalia, bộ có móng Artiodactyla, họ Hươu (Cervidae). Ta vẫn thường nói sâm, nhung, quế, phụ là 4 vị thuốc bổ đứng đầu dùng trong Đông y. Hay dùng nhất là sâm, nhung rồi đến quế và phụ tử. Phụ tử được coi là một vị thuốc "bổ dương" nhưng có độc cho nên nhiều người không dám dùng.
Lõi tiền - 糞箕篤 (粪箕笃). Còn gọi là phấn cơ đốc. Tên khoa học Stephania longa Lour. Thuộc họ Tiết dê (Menispermaceae).
Long cốt - 龍骨 (龙骨). Còn gọi là phấn long cốt, hoa long cốt, thổ long cốt. Tên khoa học Os Draconis, (Fossilia Ossis Mastodi), Os Draconis coloratus, Os Draconis nativus. Long cốt là một vị thuốc do kết quả hóa thạch (hóa đá) của xương một số động vật thời cổ đại như loại voi mamut, tê giác, lợn rừng v.v... Cho đến nay, chúng ta vẫn phải nhập vị thuốc này của Trung Quốc. Tại đây người ta xác định long cốt có thể do nhiều động vật cổ đại khác nhau như loài tê giác Trung Quốc Rhinoceros sinensis Owen hay một loại tê giác khác Rhinoceros indet, loài hươu Cervidae indet, loài trâu Bovidae indet v.v...
Long đởm thảo - 龍膽草 (龙胆草). Tên khoa học Gentiana scabra Bunge. Thuộc họ Long đởm (Gentianaceae). Long đởm thảo (Gentiana hay Radix Gentianae) là thân rễ và rễ phơi hay sấy khô của cây long đởm Gentiana scabra Bunge hay những loài khác cùng họ. Long là rồng, đởm là mật, vì vị thuốc này trông giống râu rồng, có vị đắng như mật.
Long duyên hương - 龍涎香 (龙涎香). Còn gọi là long duyên, long phúc hương, long tiết, Ambre gris. Tên khoa học Ambra griseca. Long duyên hương có nghĩa là nước dãi của con rồng (long là rồng, duyên hay diên là nước dãi, hương là có mùi thơm). Sự thực thì không phải là dãi con rồng mà chỉ là một chất đặc, sản phẩm tiêu hóa ở trong ruột của một loại cá ông (cá voi) Physeter macrocephalus L (P. catodon L.) thuộc họ Cá voi (Physeteridae).hất này do cá bài tiết ra nổi trên mặt biển, trôi dạt vào bờ biển, người ta nhặt về dùng làm thuốc và chế nước hoa hoặc hương liệu.
Long não - 樟木. Còn gọi là chương não, rã hương, may khao khinh (Lào). Tên khoa học Cinnamomum camphora L. Nees. et Eberm. (Laurus camphora L.). Thuộc họ Long não (Lauraceae). Long não (Camphora) là tinh thể không màu mùi thơm đặc biệt cất từ lá, gỗ hoặc rễ cây long não. Có khi đóng thành bánh.
Long nha thảo - 龍芽草. Còn có tên tiên hạc thảo. Tên khoa học Agrimonia nepalensis D. Don (Agrimonia eupatoria auct. non L.). Thuộc họ Hoa hồng (Rosaceae). Ta dùng toàn cây phơi hay sấy khô (Herba Agrinmoniae) của cây long nha thảo.
Long nhãn - 龍眼 (龙眼). Còn có tên là lệ chi nô, á lệ chi. Tên khoa học Euphoria longana Lamk [Euphoria longan (Lour.) Steud., Nephelium longana Lamk.]. Thuộc họ Bồ hòn (Sapindaceae). Long nhãn nhục (Arillus Longanae) là áo hạt phơi hay sấy khô nửa chừng của quả nhãn. Tên lệ chi nô vì mùa nhãn đến ngay sau khi mùa vải đã hết như người hầu cận theo chủ nhân (lệ chi là quả vải, nô là người hầu cận). Tên long nhãn vì giống mắt con rồng (long là rồng, nhãn là mắt).
Lu lu đực - 龍葵 (龙葵). Còn gọi là thù lù đực, gia cầu, nút áo, hiên già nhi miêu, morelle noire, raisin de oup, herbe au magicien. Tên khoa học Solanum nigrum L.. Thuộc họ Cà (Solanaceae).
Lục lạc ba lá tròn - 豬屎豆 (猪屎豆). Còn gọi là muống tía, dã hoàng đậu, chư thi đậu. Tên khoa học Crotalaria mucronata Desv. Thuộc họ Cánh bướm (Papilionaceae).
Lục phàn - 綠礬 (绿矾). Còn gọi là tạo phàn, thủy lục phàn, phèn đen. Tên khoa học Melanterium. Lục phàn là một khoáng sản thiên nhiên có chứa sắt sunfat (FeSO4); người ta có thể tự chế lấy theo phương pháp hóa học thông thường.
Lưỡi rắn - 水線草. Còn gọi là vương thái tô, cóc mẳn, đơn thảo, đơn đòng, tán phòng hoa nhĩ thảo. Tên khoa học Oldenlandia corymbosa L. (O. biflora Lamk, Hedyotis burmaniana R. Br). Thuộc họ Cà phê (Rubiaceae).
Lười ươi - 胖大海. Còn gọi là đười ươi, bàng đại hải, đại hải tử, sam rang, sam rang si phlè, som vang, som rong sva (Cămpuchia), crap chi ling leak, mak chong (Pakse-Lào), đại hải, an nam tử, đại đồng quả, đại phát (Trung Quốc), tam bayang, noix de Malva, graine gonflante (Pháp). Tên khoa học Sterculia lychnophora Hance. Thuộc họ Trôm (Sterculiaceae).
Mã đề - 車前. Còn gọi là mã đề thảo, xa tiền, nhả én, dứt (Thái), su ma (Thổ). Tên khoa học Plantago asiatica L. (Plantago major L. var. asiatica Decaisne). Thuộc họ Mã đề (Plantaginaceae). Cây mã đề cho các vị thuốc có tên sau đây: 1. Xa tiền tử: Semen plantaginis - là hạt phơi hay sấy khô. 2. Mã đề thảo: Herba plantaginis - là toàn cây trừ bỏ rễ phơi hay sấy khô. 3. Lá mã đề: Folium plantaginix - là lá tươi hay phơi hoặc sấy khô.
Ma hoàng - 麻黃. Còn gọi là thảo ma hoàng, xuyên ma hoàng sơn ma hoàng, mộc tặc ma hoàng, mộc ma hoàng, trung ma hoàng. Tên khoa học Ephedra sinica Stapf., Ephedra equisetina Bunge, Ephedra intermedia Schrenk et Mey. Thuộc họ Ma hoàng (Ephedraceae). Ma hoàng (Herba Ephedrae) là ngọn hay phần trên mặt đất của nhiều loài ma hoàng phơi hay sấy khô. Tên ma hoàng vì vị thuốc có vị ma (cay cay tê tê, không rõ rệt) màu vàng. Tên Ephedra do chữ Epi có nghĩa là trên, hedra có nghĩa là đất, ý nói là cây thuốc mọc trên đá; chữ sinica có nghĩa là cây nguồn gốc ở Trung Quốc; equisetina là một tặc ý nói có loài ma hoàng giống cây mộc tặc (cỏ tháp bút).
Mã thầy - 荸薺 (荸荠). Còn gọi là củ năn, bột tề. Tên khoa học Heleocharis plantaginea R. Br. Thuộc họ Cói (Cyperaceae).
ĐỐI TÁC - LIÊN KẾT
[ Lên đầu trang ]