Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu

NGŨ VỊ TỬ - 五味子

Bắc ngũ vị tử, ngũ vị tử, liêu ngũ vị, sơn hoa tiêu, Fructus Sechizandrae, quả chín phơi hay sấy khô của cây bắc ngũ vị tử, Schisandra sinensis Baill., họ Ngũ vị, Schisandraceae

Bắc ngũ vị tử - Schisandra sinensis

Nam ngũ vị tử, Fructus Kadsurae, cây nam ngũ vị tử, cây nắm cơm, Kadsura japonica L., họ Ngũ vị, Schisandraceae

Nam ngũ vị thử - Kadsura japonica

Vị thuốc có đủ năm vị: Ngọt, chua, cay, đắng và mặn do đó đặt tên.

Trên thị trường, người ta phân biệt ra hai loại ngũ vị tử:

1. Bắc ngũ vị tử - còn gọi là ngũ vị tử, liêu ngũ vị, sơn hoa tiêu (Hắc Long Giang) (Fructus Sechizandrae) là quả chín phơi hay sấy khô của cây bắc ngũ vị tử (Schisandra sinensis Baill.) thuộc họ Ngũ vị (Schisandraceae).

2. Nam ngũ vị tử - Fructus Kadsurae là quả chín phơi hay sấy khô của cây nam ngũ vị tử hay cây nắm cơm Kadsura japonica L. cùng họ Ngũ vị (Schisandraceae).

Tuy gọi là nam ngũ vị tử nhưng là nam đối với Trung Quốc. Cả hai vị ngũ vị tử hiện ta vẫn còn phải nhập. Tuy ở Việt Nam ta cũng có một loài Kadsura coccinea A. C Sm. những chưa thấy được khai thác.

A. MÔ TẢ CÂY

Cây bắc ngũ vị tử - Schisandra sinensis Baill. là một loại dây leo to, có thể mọc dài tới 8m, vỏ cành màu xám nâu với kẽ sần nổi rõ, cành nhỏ hơi có cạnh. Lá mọc so le, cuống lá nhỏ, dài 1,5-3cm; phiến lá hình trứng rộng, dài 5-11cm, rộng 3-7cm, mép có răng cưa nhỏ, mặt trên sẫm hơn, gân lá non thường có lông ngắn. Hoa đơn tính, khác gốc, cánh hoa màu vàng trắng nhạt, có mùi thơm, cánh hoa 6-9, nhị 5, quả mọng hình cầu, đường kính 5-7mm, khi chín có màu đỏ sẫm, trong chứa 1 đến 2 hạt. Tại Trung Quốc mùa hoa 5-7, mùa quả 8-9.

Cây nam ngũ vị tử - theo tài liệu (Trung dược chí, tập 2-1959) thì cũng là một loài Schizandra sphenanthera Rehd. et Wils. cùng họ, hình thái gần giống cây bắc ngũ vị tử nhưng khác nhau ở chỗ hoa bắc ngũ vị tử chỉ có 5 nhị còn cây nam ngũ vị tử có tới 10-15 nhị.

Tuy nhiên theo nhiều tài liệu trước thì nam ngũ vị tử được khai thác ở những loài Kadsura japonica L. (Trung Quốc dược dụng thực vật đồ giám - 1960), Kadsura longepedunculata Fin. et Gagnep. (Quảng Châu thực vật chí - 1956) hoặc Kadsura japonica Dun. (Thực vật học đại từ điển - Trung Quốc).

Ở đây chúng tôi chỉ mô tả một loài Kadsura có ở nước ta là Kadsura coccinea A. C. Sum. (còn có tên khác là Kadsura sinensis Hance hay Schizandra hanceana Baill.): Đây là một loài dây leo với cành phân nhiều nhánh, gầy, trên mặt phủ lớp phấn bài tiết, về sau trở thành kẽ sần dài. Lá mọc so le, hình mác với phía cuống hơi tròn, dài 6-19cm, rộng 3-4cm, mặt dưới màu nhạt, nhẵn. Hoa đơn tính, mọc ở kẽ lá dài 15mm, rộng 10mm, màu tía. Quả giống như một nắm cơm (do đó có tên cây nắm cơm) hay như một quả na to. Tên lào là repa - ropo  hay xung - xe.

Mặc dầu có ở nước ta nhưng chưa thấy khai thác.

B. PHÂN BỐ, THU HÁI VÀ CHẾ BIẾN

Bắc ngũ vị tử mọc ở Trung Quốc (Hắc Long Giang, Cát Lâm, Liêu Ninh, Hà Bắc, Sơn Tây, Hồ Bắc, Thiềm Tây, Cam Túc, Nội Mông), vùng Viễn Đông nước Nga, Triều Tiên.

Ngũ vị tử Triều Tiên được coi là loại tốt. Đến mùa thu, quả chín, hái về loại bỏ cuống và tạp chất phơi hay sấy khô. Những quả màu đỏ, hay tím đỏ, thịt dày, mẫm, bóng được coi là tốt. Trong quả có một hay hai hạt hình thận màu vàng nâu.

Điều cần chú ý là trong sách Bản thảo cương mục của Lý Thời Trân thì ngũ vị tử chia hai loại: Nam ngũ vị tử có màu đỏ, bắc ngũ vị tử được coi là tốt hơn.

Theo cách dùng trong nhân dân thì muốn cho ngũ vị tử có màu đen thì trộn ngũ vị tử với rượu (cứ 10kg ngũ vị tử dùng 2kg rượu) đun cách thủy trong 4 giờ cho đến khi rượu cạn hết, màu chuyển đen đem phơi hay sấy là được.

Nam ngũ vị tử theo Trung dược chí thì nam ngũ vị tử chỉ được khai thác để dùng tại chỗ cho nên chưa chắc có bán sang Việt Nam ta. Cây nam ngũ vị tử Schizandra sphenanthera có ở Trung Quốc tại các tỉnh Hà Nam, An Huy, Triết Giang, Hồ Bắc, Tứ Xuyên, Vân Nam, Sơn Tây, Thiểm tây, Cam Túc. Hình thái sau  khi chế biến cũng như bắc ngũ vị tử nhưng thịt mỏng hơn, không bóng, được coi như kém hơn bắc ngũ vị tử.

Cây nắm cơm ở ta chưa thấy được khai thác. Theo Petelot có mọc ở Lào Cai (Sa Pa), Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên, Lào, nhưng chưa ai thấy lại. Petelot  có nói là tại làng Nghĩa Trai (Hưng Yên) có trồng một cây mang tên ngũ vị tử  hay nắm cơm nhưng vị thuốc hoàn toàn không giống ngũ vị tử bắc và tác giả lại cho rằng đây chỉ là hạt của cây Alangiun salviifolium Wang.

Tóm lại vị ngũ vị tử hiện nay hoàn toàn còn phải nhập.

C. THÀNH PHẦN HÓA HỌC

Bắc ngũ vị tử có tinh dầu (vỏ cây 2,6-3,2%, hạt 1,6-1,9%, thân 0,2-0,7%) mùi chanh, với thành phần chủ yếu gồm 30% hợp chất sesquitecpen, 20%andehyt và xeton; quả chứa 11% axit xitric, 7-8,5% axit malic, 0,8% axit tactric, vitamin C và chừng 0,12% schizandrin (C22H32O7); thịt quả chứa 1,5% đường, tanin, chất màu; hạt chứa khoảng 34% chất béo gồm glyxerit của axit oleic và linoleic.

Schizandrin là một chất có tinh thể, không có nitơ.

Trong tro có sắt, photpho, mangan, silicium và canxi. Không thấy glucozit hay ancaloit.

Nam ngũ vị tử (Kadsura japonica L.) có chất nhầy trong thân và quả. Trong quả còn có pectin, glucoza, tinh dầu, axit hữu cơ, protit và chất béo.

D. TÁC DỤNG DƯỢC LÝ

Nhân dân vùng Viễn Đông nước Nga biết tác dụng bổ của ngũ vị tử từ lâu: Những người đi săn thường mang theo mình, mỗi ngày chỉ cần ăn một vốc tay quả khô là có thể đi săn cả ngày không cần ăn uống mà vẫn không thấy mệt. Cũng tại đây người ta còn dùng thân, vỏ cây và quả pha nước như pha chè uống để đỡ  mệt nhọc.

Đông y Trung Quốc và Việt Nam coi ngũ vị tử là một vị thuốc bổ thận dùng trong những trường hợp thân thể mệt nhọc, uể oải không muốn làm gì; còn dùng chữa  ho, liệt dương.

Gần đây ngũ vị tử được các nhà nghiên cứu dược lý hết sức chú ý kiểm tra tìm hiểu những kinh nghiệm của nhân dân, đặc biệt tại Liên Xô cũ, Triều Tiên.

K. V. Drake, V. A. Ephimôva, L. N. Markoba (1949, 1954) đã chứng minh rằng với liều nhỏ và trung bình (0,2-0,5mg/1kg thể trọng) tiêm vào mạch máu (dạng nước hãm) có tác dụng làm mạnh hệ thống tim mạch của những động vật máu nóng, làm mạnh huyết áp và tăng biên độ co của tim, kích thích hô hấp, tăng nhịp và làm sâu biên độ hô hấp; với nồng độ 1:1.000 - 1:2.000 làm giãn mạch tai cô lập của thỏ từ 40-60 đến 100%.

Thí nghiệm còn chứng minh rằng nước hãm và cồn quả ngũ vị tử với liều 0,2-0,3mg/1kg thể trọng có tác dụng kích thích hệ thống thần kinh, làm tăng khả năng phản xạ có điều kiện trên chuột bạch bình thường hãy đã gây mê. Thuốc chế từ quả và hạt có tác dụng mạnh hơn là thuốc chế từ vỏ và thân cây.

Ngũ vị tử tán nhỏ cho uống có tác dụng kích thích đối với phản xạ chân sau của chó. Với liều cao (3g/1kg thể trọng) có tác dụng kích thích đối với hệ thống thần kinh trung ương và sau cùng thì ức chế chức năng này. Khi  dùng liều nhỏ (0,5-1g/1kg) thì tác dụng bắt đầu sau 406 giờ, liều cao hơn (tác dụng xuất hiện sau 1-2 giờ), thời gian tác dụng kéo dài từ 4-20 giờ.

V. A. Ephimôva còn nghiên cứu tác dụng của ngũ vị tử đối với khả năng kích thích của hệ thống thần kinh cơ trên người từ 18 đến 54 tuổi đã nhận thấy rằng 11 người trên 13 người uống ngũ vị tử đã thấy khả năng kích thích của thần kinh cơ được tăng lên, chức năng của hệ thần kinh ngoại vi được mạnh lên. Đối với thiếu niên, liều 0,5g, đối với người trưởng thành liều 1,5g cho tác dụng mạnh nhất.

E. CÔNG DỤNG VÀ LIỀU DÙNG

Tại nước ta, ngũ vị tử còn chỉ mới được sử dụng trong phạm vi một vị thuốc đông y, tại Liên Xô cũ, Triều Tiên và một số nước khác, ngũ vị tử đã đưựoc sử dụng như một vị thuốc tây y.

Tính chất ngũ vị tử theo đông y là: Vị chua, mặn, tính ôn, không độc; vào 2 kinh Phế và Thận. Có tác dụng liễm phế, cố thận, cố tinh, chỉ mồ hôi, dùng làm thuốc trừ đờm, tu bổ, cường âm, ích khí, bổ ngũ tạng, thêm tinh trừ nhiệt.

Trong đông y, ngũ vị tử là một vị thuốc dùng chữa ho, hơi thở hổn hển, ho khan, còn dùng làm thuốc cường dương, chữa liệt dương và mệt mỏi, biếng hoạt động. Tuy nhiên đối với những người có biểu tà, có thực nhiệt thì không nên dùng.

Trong tây y (Nga) ngũ vị tử được dùng làm thuốc kích thích hệ thống thần kinh trung ương, trong trường hợp lao động chân tay và trí óc quá độ, mệt mỏi về tinh thần và thể lực, uể oải buồn ngủ.

Dùng dưới dạng cồn thuốc, bột hay thuốc viên:

Cồn ngũ vị tử chế bằng cồn 70º thì dùng với liều 30-40 giọt một lần, ngày dùng 2 lần; chế với cồn 90º thì dùng mỗi lần 20-30 giọt, ngày dùng hai đến ba lần. Thường đóng thành lọ 25-50ml.

Bột ngũ vị tử dùng mỗi lần 0,5g; ngày uống hai lần. Viên cũng như vậy. Cao chế từ hạt dùng cồn 70º theo tỷ lệ 1:3; dùng mỗi lần 20-30 giọt, mỗi ngày uống ba lần.

Ngũ vị tử còn dùng để tăng sức khi đẻ: Dùng cao hạt ngũ vị tử (cồn 70º với tỷ lệ 1:3), cho uống ba lần mỗi lần 20 đến 30 giọt, mỗi lần cách nhau một  giờ.

Tài liệu hướng dẫn ngũ vị tử của Liên Xô cũ đều nói sử dụng cần có theo dõi của thầy thuốc để tránh hiện tượng thần kinh và tim mạch bị kích thích quá. Không nên dùng đối với những trường hợp thần kinh đã bị quá kích thích, cao huyết áp, rối loạn tim.

Đơn thuốc có ngũ vị tử trong nhân dân:

   - Chữa liệt dương: Ngũ vị tử 600g tán uống, mỗi lần 4g. Ngày uống ba lần. Kiêng thịt lợn, cá, tỏi, dấm. Uống hết đơn thì khỏe, giao hợp được (theo Thiên Kim Phương - tài  liệu cổ chưa kiểm tra).

   - Chữa thận hư, tiểu tiện trắng đục, đau suốt hai bên sườn và lưng: Ngũ vị tử sao dòn, tán bột, lấy dấm thanh nấu hồ luyện thành viên, mỗi lần uống 30 viên, chiêu bằng nước nóng (theo Thiên Kim Phương - tài liệu cổ chưa kiểm tra).

   - Chữa phụ nữ âm môn giá lạnh: Ngũ vị tử 160g tán bột, dùng nước tiểu trộn làm thành viên bằng hạt ngô, để vào âm môn (theo Cận Hiệu Phương - tài liệu cổ chưa kiểm tra).

   - Chữa ho lâu, phổi viêm: Ngũ vị tử 80g, túc xác tẩm với đường sao qua 20g; hai vị tán bột, luyện với kẹo mạch nha viên bằng quả táo mỗi lần ngậm một viên (theo Vệ sinh gia bảo - tài liệu cổ).

   - Chữa ho đờm và thở: Ngũ vị tử, bạch phàn hai vị bằng nhau, cùng tán bột, mỗi lần dùng 12 g; lấy phổi lợn nướng chín, chấm bột mà ăn, chiêu bằng nước nóng (theo Phổ Tế Phương - tài liệu cổ).

Nguồn: Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tác giả: Giáo sư Tiến sĩ khoa học ĐỖ TẤT LỢI



Xin vui lòng ghi rõ nguồn http://www.dotatloi.com khi phát hành lại thông tin.


Tuyên bố miễn trừ trách nhiệm:
Thông tin trên www.dotatloi.com chỉ phục vụ nghiên cứu học tập và mở rộng kiến thức. Không sử dụng làm căn cứ để tiến hành chẩn trị trên lâm sàng. Thông tin trên www.dotatloi.com có thể được trích dẫn, thu thập từ các ấn phẩm, các trang tin điện tử liên quan trong nước và ngoài nước. Nếu phát sinh vấn đề bản quyền, kính đề nghị phản hồi cho chúng tôi.

Viết bình luận

Để thuận tiện cho việc đăng tải, xin vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.
Chúng tôi mong muốn nhận được những bình luận theo hướng mở rộng hoặc bổ sung thông tin liên quan đến bài viết.
Chúng tôi sẽ khóa những bình luận có ngôn từ mang tính kích động hoặc bất nhã.

focus Dâm dương hoắc
04/06/2025 11:31 CH

- 淫羊藿. Dâm hương hoắc (Herba Epimedii) là toàn cây phơi hay sấy khô của nhiều loài cây thuốc chi Epimedium như dâm dương hoắc lá to - Epimedium macranthum Morr-et Decne, dâm dương hoắc lá mắc - Epimedium sagittatum (Sieb, et Zucc.) Maxim. (E. sinense Sieb. ...

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu
Tên vị thuốc Mô tả
Mã đề - 車前. Còn gọi là mã đề thảo, xa tiền, nhả én, dứt (Thái), su ma (Thổ). Tên khoa học Plantago asiatica L. (Plantago major L. var. asiatica Decaisne). Thuộc họ Mã đề (Plantaginaceae). Cây mã đề cho các vị thuốc có tên sau đây: 1. Xa tiền tử: Semen plantaginis - là hạt phơi hay sấy khô. 2. Mã đề thảo: Herba plantaginis - là toàn cây trừ bỏ rễ phơi hay sấy khô. 3. Lá mã đề: Folium plantaginix - là lá tươi hay phơi hoặc sấy khô.
Ma hoàng - 麻黃. Còn gọi là thảo ma hoàng, xuyên ma hoàng sơn ma hoàng, mộc tặc ma hoàng, mộc ma hoàng, trung ma hoàng. Tên khoa học Ephedra sinica Stapf., Ephedra equisetina Bunge, Ephedra intermedia Schrenk et Mey. Thuộc họ Ma hoàng (Ephedraceae). Ma hoàng (Herba Ephedrae) là ngọn hay phần trên mặt đất của nhiều loài ma hoàng phơi hay sấy khô. Tên ma hoàng vì vị thuốc có vị ma (cay cay tê tê, không rõ rệt) màu vàng. Tên Ephedra do chữ Epi có nghĩa là trên, hedra có nghĩa là đất, ý nói là cây thuốc mọc trên đá; chữ sinica có nghĩa là cây nguồn gốc ở Trung Quốc; equisetina là một tặc ý nói có loài ma hoàng giống cây mộc tặc (cỏ tháp bút).
Mã thầy - 荸薺 (荸荠). Còn gọi là củ năn, bột tề. Tên khoa học Heleocharis plantaginea R. Br. Thuộc họ Cói (Cyperaceae).
Mã tiền - 馬錢 (马钱). Còn gọi là củ chi, sleng thom, sleng touch (Campuchia), kok toung ka (Lào), vomiquier fausse angusture, mắc sèn sứ (Thổ) co bên kho (Thái). Tên khoa học Strychnos nuxvomica L. Thuộc họ Mã tiền (Loganiaceae). Tên mã tiền dùng để chỉ nhiều cây khác nhau thuộc chi Strychnos cho những hạt giống như chiếc khuy áo lớn, và có chứa những ancaloit có tác dụng mạnh chủ yếu là strycnin và bruxin. Có cây là cây đứng, có cây là dây leo. Nhiều cây leo chưa được xác định tên chắc chắn, thường chỉ mới tạm xác định là Strychnos sp. Có khi cùng một loài nhưng nếu khai thác hạt người ta gọi là cây mã tiền, nếu khai thác vỏ người ta lại gọi là cây hoàng nàn. Tên Strychnos do chữ Hy Lạp có nghĩa là những cây có độc, nux có nghĩa là quả cứng, vomica nghĩa là gây nôn, ý nói Strychnos nuxvomica là một cây có độc, quả cứng gây nôn.
Mắc kẹn - 七葉樹 (七叶树). Còn gọi là bàm bàm, ma keyeng, may kho, marronier. Tên khoa học Aesculus sinenisis Bunge. Thuộc họ Bồ Hòn (Sapindaceae).
Mắc nưa - 柿油樹. Còn gọi là mặc nưa, mac leua (Cămpuchia). Tên khoa học Diospyros mollis Griff. Thuộc họ Thị (Ebenaceae).
Mạch ba góc - 蕎麥 (荞麦). Còn gọi là tam giác mạch, lúa mạch đen, kiều mạch, sèo (Lào Cai, Yên Bái). Tên khoa học Fagopyrum esculentum Moench. (Fagopyrum sagittatum Cilib). Thuộc họ Rau răm (Polygonaceae). Ta có thể dùng toàn cây nhưng chủ yếu là lá và hoa của mạch ba góc để làm nguyên liệu chiết rutin.
Mạch môn đông - 麥門冬. Còn có tên là mạch đông, cây lan tiên. Tên khoa học Ophiopogon japonicus Wall. Thuộc họ Hành tỏi (Liliaceae). Người ta dùng rễ củ phơi hay sấy khô (Radix Ophiopogoni) của cây mạch môn đông. Vì lá giống lá lúa mạch, về mùa đông lá vẫn xanh tươi nên gọi là mạch đông.
Mạch nha - 麥芽. Tên khoa học Maltum. Mạch nha chính thức là hạt lúa mạch Hordeum sativum Jess. var. vulgare Hack hoặc một loài Hordeum khác thuộc họ Lúa Poaceae (Gramineae) cho mọc mầm, rồi sấy khô ở nhiệt độ dưới 60 độ. Ở Việt Nam ta vì chưa có lúa mạch, vẫn dùng hạt thóc tẻ (thóc chiêm hay thóc mùa đều được) Oryza sativa L. var. utilissima cùng họ để ngâm cho nẩy mầm rồi phơi khô, gọi là cốc nha. Muốn có thóc nẩy mầm, chỉ cần đãi thóc sạch đất cát, ngâm nước cho ẩm, sau đó ủ kín, thỉnh thoảng tưới nước để giữ ẩm đều, sau vài ngày hạt thóc nảy mầm, khi nào một số mầm bắt đầu xanh thì lấy ra phơi nắng cho khô, để nguyên hoặc tán nhỏ, sãy hết trấu mà dùng.
Mai mực - 海螵鞘. Còn gọi là hải phiêu tiêu, mai cá mực, ô tặc cốt. Tên khoa học Sepia esculenta Hoyle, Sepiaandreana Steen-Strup. Thuộc họ Cá mực (Sepiidae). Ô tặc cốt - Os Sepiae là mai rửa sạch, phơi khô của con mực nang hay mực ván (Seppiaesculenta Hoyle) hoặc của con mực ống, mực cơm (Sepiidae) nhưng chủ yếu là mực nang hay mực ván vì mực cơm hay mực ống có mai nhỏ. Tên ô tặc vì theo cách sách cổ, con cá mực thích ăn thịt chim, thường giả chết nổi trên mặt nước, chim tưởng là xác chết, bay sà xuống để mổ, bị nó lôi xuống nước ăn thịt, ăn thịt nhiều quạ do đó thành tên vì ô là quạ, tặc là giặc, cốt là xương; ý nói xương của giặc đối với quạ. Tên hải phiêu tiêu vì vị thuốc giống tổ con bọ ngựa mà lại gặp ở ngoài bể (phiêu tiêu là tổ bọ ngựa).
Mâm xôi - 粗葉懸鉤子 (粗叶悬钩子). Còn gọi là đùm đũm. Tên khoa học Rubus alceaefolius Poir. (Rubus fimbriifeus Focke). Thuộc họ Hoa hồng (Rosaceae).
Màn kinh tử - 蔓荊子. Còn gọi là kinh tử, vạn kim tử, quan âm, thuốc kinh, thuốc ôn, đẹn ba lá. Tên khoa học Vitex trifoolia L. Thuộc họ Cỏ roi ngựa (Verbenaceae). Màn kinh tử (Fructus Viticis) là quả chín phơi hay sấy khô của cây quan âm hay cây màn kinh, còn gọi là cây thuốc ôn. Màn là mọc lan ra, kinh là gai. Thứ cây này mọc lan ra mặt đất, nên gọi tên như vậy.
Mần tưới - 澤蘭 (泽兰). Còn gọi là hương thảo, lan thảo, Ayapana du Tonkin. Tên khoa học Eupatorium staechadosmun Hance. Thuộc họ Cúc Asteraceae (Compositae).
Măng cụt - 山竺、山竹子. Còn gọi là sơn trúc tử, mangoustanier. Tên khoa học Garcinia mangostana L. (Mangostana garcinia Gaertn.). Thuộc họ Bứa Clusiaceae (Guttferae). Tuy mang tên sơn trúc tử tại Trung Quốc, nhưng Trung Quốc không có cây này, vẫn phải nhập từ nước ngoài vào.
Màng tang - 澄茄子. Còn gọi là tất trừng già. Tên khoa học Litsea cubeba (Lour.) Pers. Thuộc họ Long não (Lauraceae).
Mang tiêu - 芒硝. Còn gọi là phác tiêu, huyền minh phấn. Tên khoa học Mirabilita, Natrium Sulfuricum, Sal Glauberis. Mang tiêu (Natrium Sulfuricum, Sal Glauberis) là muối natri sunfat thiên nhiên tinh chế mà thành. Huyền minh phấn (Natrium Sulfuricum exciccatum) còn gọi là nguyên minh phấn, hay phong hóa tiêu là mang tiêu khử hết nước.
Mật động vật (đởm) Đông y và Tây y đều dùng mật động vật làm thuốc, nhưng Tây y chỉ hay dùng mật lợn, mật bò. Còn Đông y dùng mật của nhiều loài như mật gấu, mật dê, mật lợn, mật bò, mật trăn, mật rắn, mật gà, mật cá chép, .v.v.
Mật gấu - 熊膽 (熊胆). Còn gọi là hùng đởm. Tên khoa học Fel Ursi. Thuộc họ Gấu (Ursidae). Mật gấu (Fel Ursi) là túi mật phơi hay sấy khô của nhiều loài gấu Ursus sp. Ở Việt Nam, thường là loài gấu ngựa Selenarctos thibetanus G. Cuvier. có khoang như chữ V trắng ở ngực. Đôi khi có loài gấu chó hay gấu đen, gấu xám (hiếm hơn) Ursus arctos lisiotus Gray.
ĐỐI TÁC - LIÊN KẾT
[ Lên đầu trang ]