Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu

NGŨ VỊ TỬ - 五味子

Bắc ngũ vị tử, ngũ vị tử, liêu ngũ vị, sơn hoa tiêu, Fructus Sechizandrae, quả chín phơi hay sấy khô của cây bắc ngũ vị tử, Schisandra sinensis Baill., họ Ngũ vị, Schisandraceae

Bắc ngũ vị tử - Schisandra sinensis

Nam ngũ vị tử, Fructus Kadsurae, cây nam ngũ vị tử, cây nắm cơm, Kadsura japonica L., họ Ngũ vị, Schisandraceae

Nam ngũ vị thử - Kadsura japonica

Vị thuốc có đủ năm vị: Ngọt, chua, cay, đắng và mặn do đó đặt tên.

Trên thị trường, người ta phân biệt ra hai loại ngũ vị tử:

1. Bắc ngũ vị tử - còn gọi là ngũ vị tử, liêu ngũ vị, sơn hoa tiêu (Hắc Long Giang) (Fructus Sechizandrae) là quả chín phơi hay sấy khô của cây bắc ngũ vị tử (Schisandra sinensis Baill.) thuộc họ Ngũ vị (Schisandraceae).

2. Nam ngũ vị tử - Fructus Kadsurae là quả chín phơi hay sấy khô của cây nam ngũ vị tử hay cây nắm cơm Kadsura japonica L. cùng họ Ngũ vị (Schisandraceae).

Tuy gọi là nam ngũ vị tử nhưng là nam đối với Trung Quốc. Cả hai vị ngũ vị tử hiện ta vẫn còn phải nhập. Tuy ở Việt Nam ta cũng có một loài Kadsura coccinea A. C Sm. những chưa thấy được khai thác.

A. MÔ TẢ CÂY

Cây bắc ngũ vị tử - Schisandra sinensis Baill. là một loại dây leo to, có thể mọc dài tới 8m, vỏ cành màu xám nâu với kẽ sần nổi rõ, cành nhỏ hơi có cạnh. Lá mọc so le, cuống lá nhỏ, dài 1,5-3cm; phiến lá hình trứng rộng, dài 5-11cm, rộng 3-7cm, mép có răng cưa nhỏ, mặt trên sẫm hơn, gân lá non thường có lông ngắn. Hoa đơn tính, khác gốc, cánh hoa màu vàng trắng nhạt, có mùi thơm, cánh hoa 6-9, nhị 5, quả mọng hình cầu, đường kính 5-7mm, khi chín có màu đỏ sẫm, trong chứa 1 đến 2 hạt. Tại Trung Quốc mùa hoa 5-7, mùa quả 8-9.

Cây nam ngũ vị tử - theo tài liệu (Trung dược chí, tập 2-1959) thì cũng là một loài Schizandra sphenanthera Rehd. et Wils. cùng họ, hình thái gần giống cây bắc ngũ vị tử nhưng khác nhau ở chỗ hoa bắc ngũ vị tử chỉ có 5 nhị còn cây nam ngũ vị tử có tới 10-15 nhị.

Tuy nhiên theo nhiều tài liệu trước thì nam ngũ vị tử được khai thác ở những loài Kadsura japonica L. (Trung Quốc dược dụng thực vật đồ giám - 1960), Kadsura longepedunculata Fin. et Gagnep. (Quảng Châu thực vật chí - 1956) hoặc Kadsura japonica Dun. (Thực vật học đại từ điển - Trung Quốc).

Ở đây chúng tôi chỉ mô tả một loài Kadsura có ở nước ta là Kadsura coccinea A. C. Sum. (còn có tên khác là Kadsura sinensis Hance hay Schizandra hanceana Baill.): Đây là một loài dây leo với cành phân nhiều nhánh, gầy, trên mặt phủ lớp phấn bài tiết, về sau trở thành kẽ sần dài. Lá mọc so le, hình mác với phía cuống hơi tròn, dài 6-19cm, rộng 3-4cm, mặt dưới màu nhạt, nhẵn. Hoa đơn tính, mọc ở kẽ lá dài 15mm, rộng 10mm, màu tía. Quả giống như một nắm cơm (do đó có tên cây nắm cơm) hay như một quả na to. Tên lào là repa - ropo  hay xung - xe.

Mặc dầu có ở nước ta nhưng chưa thấy khai thác.

B. PHÂN BỐ, THU HÁI VÀ CHẾ BIẾN

Bắc ngũ vị tử mọc ở Trung Quốc (Hắc Long Giang, Cát Lâm, Liêu Ninh, Hà Bắc, Sơn Tây, Hồ Bắc, Thiềm Tây, Cam Túc, Nội Mông), vùng Viễn Đông nước Nga, Triều Tiên.

Ngũ vị tử Triều Tiên được coi là loại tốt. Đến mùa thu, quả chín, hái về loại bỏ cuống và tạp chất phơi hay sấy khô. Những quả màu đỏ, hay tím đỏ, thịt dày, mẫm, bóng được coi là tốt. Trong quả có một hay hai hạt hình thận màu vàng nâu.

Điều cần chú ý là trong sách Bản thảo cương mục của Lý Thời Trân thì ngũ vị tử chia hai loại: Nam ngũ vị tử có màu đỏ, bắc ngũ vị tử được coi là tốt hơn.

Theo cách dùng trong nhân dân thì muốn cho ngũ vị tử có màu đen thì trộn ngũ vị tử với rượu (cứ 10kg ngũ vị tử dùng 2kg rượu) đun cách thủy trong 4 giờ cho đến khi rượu cạn hết, màu chuyển đen đem phơi hay sấy là được.

Nam ngũ vị tử theo Trung dược chí thì nam ngũ vị tử chỉ được khai thác để dùng tại chỗ cho nên chưa chắc có bán sang Việt Nam ta. Cây nam ngũ vị tử Schizandra sphenanthera có ở Trung Quốc tại các tỉnh Hà Nam, An Huy, Triết Giang, Hồ Bắc, Tứ Xuyên, Vân Nam, Sơn Tây, Thiểm tây, Cam Túc. Hình thái sau  khi chế biến cũng như bắc ngũ vị tử nhưng thịt mỏng hơn, không bóng, được coi như kém hơn bắc ngũ vị tử.

Cây nắm cơm ở ta chưa thấy được khai thác. Theo Petelot có mọc ở Lào Cai (Sa Pa), Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên, Lào, nhưng chưa ai thấy lại. Petelot  có nói là tại làng Nghĩa Trai (Hưng Yên) có trồng một cây mang tên ngũ vị tử  hay nắm cơm nhưng vị thuốc hoàn toàn không giống ngũ vị tử bắc và tác giả lại cho rằng đây chỉ là hạt của cây Alangiun salviifolium Wang.

Tóm lại vị ngũ vị tử hiện nay hoàn toàn còn phải nhập.

C. THÀNH PHẦN HÓA HỌC

Bắc ngũ vị tử có tinh dầu (vỏ cây 2,6-3,2%, hạt 1,6-1,9%, thân 0,2-0,7%) mùi chanh, với thành phần chủ yếu gồm 30% hợp chất sesquitecpen, 20%andehyt và xeton; quả chứa 11% axit xitric, 7-8,5% axit malic, 0,8% axit tactric, vitamin C và chừng 0,12% schizandrin (C22H32O7); thịt quả chứa 1,5% đường, tanin, chất màu; hạt chứa khoảng 34% chất béo gồm glyxerit của axit oleic và linoleic.

Schizandrin là một chất có tinh thể, không có nitơ.

Trong tro có sắt, photpho, mangan, silicium và canxi. Không thấy glucozit hay ancaloit.

Nam ngũ vị tử (Kadsura japonica L.) có chất nhầy trong thân và quả. Trong quả còn có pectin, glucoza, tinh dầu, axit hữu cơ, protit và chất béo.

D. TÁC DỤNG DƯỢC LÝ

Nhân dân vùng Viễn Đông nước Nga biết tác dụng bổ của ngũ vị tử từ lâu: Những người đi săn thường mang theo mình, mỗi ngày chỉ cần ăn một vốc tay quả khô là có thể đi săn cả ngày không cần ăn uống mà vẫn không thấy mệt. Cũng tại đây người ta còn dùng thân, vỏ cây và quả pha nước như pha chè uống để đỡ  mệt nhọc.

Đông y Trung Quốc và Việt Nam coi ngũ vị tử là một vị thuốc bổ thận dùng trong những trường hợp thân thể mệt nhọc, uể oải không muốn làm gì; còn dùng chữa  ho, liệt dương.

Gần đây ngũ vị tử được các nhà nghiên cứu dược lý hết sức chú ý kiểm tra tìm hiểu những kinh nghiệm của nhân dân, đặc biệt tại Liên Xô cũ, Triều Tiên.

K. V. Drake, V. A. Ephimôva, L. N. Markoba (1949, 1954) đã chứng minh rằng với liều nhỏ và trung bình (0,2-0,5mg/1kg thể trọng) tiêm vào mạch máu (dạng nước hãm) có tác dụng làm mạnh hệ thống tim mạch của những động vật máu nóng, làm mạnh huyết áp và tăng biên độ co của tim, kích thích hô hấp, tăng nhịp và làm sâu biên độ hô hấp; với nồng độ 1:1.000 - 1:2.000 làm giãn mạch tai cô lập của thỏ từ 40-60 đến 100%.

Thí nghiệm còn chứng minh rằng nước hãm và cồn quả ngũ vị tử với liều 0,2-0,3mg/1kg thể trọng có tác dụng kích thích hệ thống thần kinh, làm tăng khả năng phản xạ có điều kiện trên chuột bạch bình thường hãy đã gây mê. Thuốc chế từ quả và hạt có tác dụng mạnh hơn là thuốc chế từ vỏ và thân cây.

Ngũ vị tử tán nhỏ cho uống có tác dụng kích thích đối với phản xạ chân sau của chó. Với liều cao (3g/1kg thể trọng) có tác dụng kích thích đối với hệ thống thần kinh trung ương và sau cùng thì ức chế chức năng này. Khi  dùng liều nhỏ (0,5-1g/1kg) thì tác dụng bắt đầu sau 406 giờ, liều cao hơn (tác dụng xuất hiện sau 1-2 giờ), thời gian tác dụng kéo dài từ 4-20 giờ.

V. A. Ephimôva còn nghiên cứu tác dụng của ngũ vị tử đối với khả năng kích thích của hệ thống thần kinh cơ trên người từ 18 đến 54 tuổi đã nhận thấy rằng 11 người trên 13 người uống ngũ vị tử đã thấy khả năng kích thích của thần kinh cơ được tăng lên, chức năng của hệ thần kinh ngoại vi được mạnh lên. Đối với thiếu niên, liều 0,5g, đối với người trưởng thành liều 1,5g cho tác dụng mạnh nhất.

E. CÔNG DỤNG VÀ LIỀU DÙNG

Tại nước ta, ngũ vị tử còn chỉ mới được sử dụng trong phạm vi một vị thuốc đông y, tại Liên Xô cũ, Triều Tiên và một số nước khác, ngũ vị tử đã đưựoc sử dụng như một vị thuốc tây y.

Tính chất ngũ vị tử theo đông y là: Vị chua, mặn, tính ôn, không độc; vào 2 kinh Phế và Thận. Có tác dụng liễm phế, cố thận, cố tinh, chỉ mồ hôi, dùng làm thuốc trừ đờm, tu bổ, cường âm, ích khí, bổ ngũ tạng, thêm tinh trừ nhiệt.

Trong đông y, ngũ vị tử là một vị thuốc dùng chữa ho, hơi thở hổn hển, ho khan, còn dùng làm thuốc cường dương, chữa liệt dương và mệt mỏi, biếng hoạt động. Tuy nhiên đối với những người có biểu tà, có thực nhiệt thì không nên dùng.

Trong tây y (Nga) ngũ vị tử được dùng làm thuốc kích thích hệ thống thần kinh trung ương, trong trường hợp lao động chân tay và trí óc quá độ, mệt mỏi về tinh thần và thể lực, uể oải buồn ngủ.

Dùng dưới dạng cồn thuốc, bột hay thuốc viên:

Cồn ngũ vị tử chế bằng cồn 70º thì dùng với liều 30-40 giọt một lần, ngày dùng 2 lần; chế với cồn 90º thì dùng mỗi lần 20-30 giọt, ngày dùng hai đến ba lần. Thường đóng thành lọ 25-50ml.

Bột ngũ vị tử dùng mỗi lần 0,5g; ngày uống hai lần. Viên cũng như vậy. Cao chế từ hạt dùng cồn 70º theo tỷ lệ 1:3; dùng mỗi lần 20-30 giọt, mỗi ngày uống ba lần.

Ngũ vị tử còn dùng để tăng sức khi đẻ: Dùng cao hạt ngũ vị tử (cồn 70º với tỷ lệ 1:3), cho uống ba lần mỗi lần 20 đến 30 giọt, mỗi lần cách nhau một  giờ.

Tài liệu hướng dẫn ngũ vị tử của Liên Xô cũ đều nói sử dụng cần có theo dõi của thầy thuốc để tránh hiện tượng thần kinh và tim mạch bị kích thích quá. Không nên dùng đối với những trường hợp thần kinh đã bị quá kích thích, cao huyết áp, rối loạn tim.

Đơn thuốc có ngũ vị tử trong nhân dân:

   - Chữa liệt dương: Ngũ vị tử 600g tán uống, mỗi lần 4g. Ngày uống ba lần. Kiêng thịt lợn, cá, tỏi, dấm. Uống hết đơn thì khỏe, giao hợp được (theo Thiên Kim Phương - tài  liệu cổ chưa kiểm tra).

   - Chữa thận hư, tiểu tiện trắng đục, đau suốt hai bên sườn và lưng: Ngũ vị tử sao dòn, tán bột, lấy dấm thanh nấu hồ luyện thành viên, mỗi lần uống 30 viên, chiêu bằng nước nóng (theo Thiên Kim Phương - tài liệu cổ chưa kiểm tra).

   - Chữa phụ nữ âm môn giá lạnh: Ngũ vị tử 160g tán bột, dùng nước tiểu trộn làm thành viên bằng hạt ngô, để vào âm môn (theo Cận Hiệu Phương - tài liệu cổ chưa kiểm tra).

   - Chữa ho lâu, phổi viêm: Ngũ vị tử 80g, túc xác tẩm với đường sao qua 20g; hai vị tán bột, luyện với kẹo mạch nha viên bằng quả táo mỗi lần ngậm một viên (theo Vệ sinh gia bảo - tài liệu cổ).

   - Chữa ho đờm và thở: Ngũ vị tử, bạch phàn hai vị bằng nhau, cùng tán bột, mỗi lần dùng 12 g; lấy phổi lợn nướng chín, chấm bột mà ăn, chiêu bằng nước nóng (theo Phổ Tế Phương - tài liệu cổ).

Nguồn: Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tác giả: Giáo sư Tiến sĩ khoa học ĐỖ TẤT LỢI



Xin vui lòng ghi rõ nguồn http://www.dotatloi.com khi phát hành lại thông tin.


Tuyên bố miễn trừ trách nhiệm:
Thông tin trên www.dotatloi.com chỉ phục vụ nghiên cứu học tập và mở rộng kiến thức. Không sử dụng làm căn cứ để tiến hành chẩn trị trên lâm sàng. Thông tin trên www.dotatloi.com có thể được trích dẫn, thu thập từ các ấn phẩm, các trang tin điện tử liên quan trong nước và ngoài nước. Nếu phát sinh vấn đề bản quyền, kính đề nghị phản hồi cho chúng tôi.

Viết bình luận

Để thuận tiện cho việc đăng tải, xin vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.
Chúng tôi mong muốn nhận được những bình luận theo hướng mở rộng hoặc bổ sung thông tin liên quan đến bài viết.
Chúng tôi sẽ khóa những bình luận có ngôn từ mang tính kích động hoặc bất nhã.

focus Âu ô đầu
01/06/2025 11:47 CH

歐烏頭 (欧乌头). Còn gọi là Aconnit napel. Tên khoa học Aconitum napellus L. Thuộc họ Mao lương (Ranunculaceae). Âu ô đầu là rễ củ phụ (còn gọi là củ con) của cây Âu ô đầu phơi hay sấy khô. Có khi người ta dùng cả củ mẹ.

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu
Tên vị thuốc Mô tả
Chu sa - Thần sa - 朱砂, 辰砂. Còn gọi là châu sa, đơn sa. Tên khoa học Cinnabaris. Chu sa và thần sa cùng là một loại thuốc có thành phần hóa học giống nhau, nhưng loại chu sa nguồn gốc ở tỉnh Hồ Nam Trung Quốc (xưa kia vùng này gọi là châu Thần cho nên có tên thần sa là thứ đá ở châu Thần) được coi là tốt hơn. Sự đánh giá này trên thực tế là đúng và hiện nay ta tìm được cơ sở khoa học của sự đánh giá đó. Chu là đỏ, sa là đá (châu là chữ chu đọc chệch). Vì châu sa là một tảng đá có màu đỏ. Đơn cũng là màu đỏ.
Chùa dù - 四方蒿. Còn gọi là tả hoàng đồ (Lào cai) Dê sua tùa. Tên khoa học Elsholtzia blanda Benth., E. penduliflora W. Smith. Thuộc họ Hoa môi Lamiaceae (Labiatae).
Chua me đất hoa vàng - 酢浆草. Còn gọi là tạc tương thảo, toàn tương thảo, toàn vị thảo, toan vị vị, chua me bá chìa, tam diệp toan. Tên khoa học Oxalis corniculata L. (Oxalis repens Thunb, Oxalis javanica Blume). Thuộc họ Chua me đất (Oxalidaceae).
Chút chít - 酸模, 刺酸模. Còn gọi là trút trít, lưỡi bò, ngưu thiệt, dương đề. Tên khoa học Rumex wallichii Meisn. Rume sinensis (Rumex maritimus Hook). Thuộc họ Rau răm (Polygonaceae). Dương là dê, đề là gót, vì rễ cây giống chân dê do đó có tên. Lưỡi bò hay ngưu thiệt (cũng có nghĩa là lưỡi bò hay lưỡi trâu) vì lá cây giống lưỡi bò. Trẻ con thường cọ 2 lá vào nhau, làm phát ra tiếng kêu "chút chít" do đó thành tên.
Cỏ bạc đầu - 猴子草. Còn gọi là cỏ nút áo, smao kak kdam (Camupuchia). Tên khoa học Kyllinga monocephala Rottb. Thuộc họ Cói (Cyperaceae).
Cỏ bợ - 蘋, 田字草. Còn gọi là tần, tứ diệp thảo, điền tự thảo, phá đồng tiền, dạ hợp thảo, phak vèn (Lào - Vientian). Tên khoa học Marsilea quadrifolia L. (Lemna quadrifolia Desr. Pteris quadrifoliata L.). Thuộc họ Tần (Marsileaceae), bộ Dương xỉ (Hydropterides).
Cỏ chỉ - 鐵線草 (铁线草). Còn gọi là cỏ gà, cỏ ống. Tên khoa học Cynodon dactylon Pers. Thuộc họ Lúa Poaceae (Gramineae). Cỏ chỉ - cỏ ống (Rhizoma cynodoni) là thân rễ phơi hay sấy khô của cây cỏ ống hay cây cỏ chỉ.
Cỏ đuôi lươn - 田葱. Còn có tên là bồn bồn, điền thông. Tên khoa học Philydrum lanuginosum Banks (Garciana cochinchinensis Lour). Thuộc họ Cỏ đuôi lươn (Philydraceae). Tên là cỏ đuôi lươn vì ngọn và cụm hoa giống đuôi con lươn. Tên điền thông được ghi trong Lĩnh nam thái dược lục (sách cổ).
Cổ giải Tên khoa học Milletia sp. Thuộc họ Cánh bướm Fabaceae (Papilionaceae).
Cỏ mần trầu - 牛筋草. Còn gọi là ngưu cân thảo, sam tử thảo, tất suất thảo, cỏ vườn trầu, cỏ chỉ tía, cỏ dáng, cỏ bắc, cheung kras (Campuchia), mia pak kouay (Lào). Tên khoa học Eleusine indica (L.) Gaertn. (Cynosurus indica L.). Thuộc họ Lúa Poaceae (Gramineae).
Cỏ may - 竹節草 (竹节草). Còn gọi là bông cỏ, thảo tử hoa, trúc tiết thảo. Tên khoa học Chysopogon aciculatus (Retz.) Trin. (Andropogon aciculatus Retz. Rhaphis trivialis Lour.). Thuộc họ Lúa Poaceae (Gramineae).
Cỏ nhọ nồi - 墨旱蓮 (墨旱莲). Còn có tên là cây cỏ mực, hạn liên thảo. Tên khoa học Eclipta alba Hassk. (Eclipta erecta Lamk.). Thuộc họ Cúc Ssteraceae (Composittae). Ta dùng toàn cây nhọ nồi (Herba Ecliptae) tươi hoặc khô.
Cỏ sữa nhỏ lá - 千根草 (小飛揚草). Tên khoa học Euphorbia thymifolia Burm (E. prostrata Grah). Thuộc họ Thầu dầu (Euphorbiaceae). Ta dùng toàn cây phơi khô của cây cỏ sữa nhỏ lá.
Cỏ thiên thảo - 防風草 (防风草). Còn gọi là cây cứt lợn, kiếm, san nga (luang Prabang). Tên khoa học Anisomeles ovata R. Br. Thuộc họ Hoa môi Lamiaceae (Labiatae).
Cỏ tranh - 白茅根. Còn gọi là bạch mao. Tên khoa học Imperata cylindrica Beauv. Thuộc họ Lúa Poaceae (Gramineae). Rễ cỏ tranh hay bạch mao căn (Rhizoma Imperatae) là thân rễ phơi hay sấy khô của cây tranh hay cỏ tranh.
Cỏ trói gà - 錦地羅 (锦地罗). Còn có tên là cỏ tỹ gà, cẩm địa là, bèo đất. Tên khoa học Drosera burmannii Vahl. (Dorseraceae rotundifolia Lour., non L.). Thuộc họ cây Bắt ruồi (Droseraceae).
Cóc mẳn - 石胡荽. Còn gọi là cúc mẳn, cỏ the, thạch hồ tuy, nga bất thực thảo, địa hồ tiêu, cầu tử thảo. Tên khoa học Centipeda minima (L.) A.Br. et. Aschers (Myrigyne minuta Less., Centipeda orbicularis Lour.). Thuộc họ Cúc Asteraceae (Compositae). Tên cóc mẳn còn dùng chỉ một cây khác thuộc họ Cà phê có tên khác là vương thái tô Oldenlandia corymbosa Sind.
Cốc tinh thảo - 谷精草. Còn gọi là cỏ đuôi công, cây cốc tinh, cỏ dùi trống. Tên khoa học Eriocaulon sexangulare L. Thuộc họ Cốc tinh thảo (Eriocaulaceae). Cốc tinh thảo (Scapus Eriocauli) là cán mang hoa phơi hay sấy khô của cây cốc tinh thảo hay cây cỏ đuôi công, hay cây cốc tinh. Ta còn dùng cán mang hoa của một số loài Eriocaulon khác có hình dáng giống nhau. Tên cốc tinh vì người ta thấy sau khi lúa đã gặt rồi thì cây này xuất hiện, do đó cho là cốc tinh của lúa mọc lên.
ĐỐI TÁC - LIÊN KẾT
[ Lên đầu trang ]