Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu

NẤM HƯƠNG - 香菇

Còn gọi là bioc hom, lét lang.

Tên khoa học Lentinus edodes (Berk.) Sing.; Agaricus rhinonensis Berk.

Thuộc họ Nấm tán Polyporaceae (Pleurotaceae).

NẤM HƯƠNG, 香菇, bioc hom, lét lang, Lentinus edodes (Berk.) Sing., Agaricus rhinonensis Berk., họ Nấm tán, Polyporaceae, Pleurotaceae

Nấm hương - Lentinus edodes

A. MÔ TẢ CÂY

Nấm hương (nấm có mùi thơm), hay bioc hom (hoa thơm) hoặc lét lang (nấm thơm) gồm một chân đính vào giữa mũ (còn gọi là chụp hay tai nấm).

Mặt trên mũ màu nâu, mặt dưới mũ có nhiều bản mỏng tỏa từ chân ra mép mũ mang những bào tầng phủ trên mặt ngoài các bản mỏng đó. Những bản mỏng này không nối vào nhau.

B. PHÂN BỐ, THU HÁI VÀ CHẾ BIẾN

Nấm hương và một loại lâm sản quý, mọc hoang dại trong những rừng ẩm mát các tỉnh miền núi cao như Lào Cai, Lai Châu, Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Thái, Hà Giang, Tuyên Quang, Hà Tây, Hoa Bình v.v...

Trước đây nhiều nơi chỉ biết thu hoạch nấm hương mọc hoang dại. Bào tử nấm bay rất xa, bám vào các loại gỗ thích hợp như cây côm (Elaocarpus dubius), giẻ đỏ, giẻ sồi, sồi bộp, đỏ ngọn, re đỏ, nhưng nấm trên gỗ côm được ưa chuộng nhất.

Trong điều kiện độ ẩm cao, nhiệt độ thấp, ánh sáng khuếch tán của rừng, bào tử sinh sôi nẩy nở.

Một số đồng bào miền núi ở nhiều nơi đã biết trồng nấm hương như ở Chũ (Bắc Giang cũ, nay thuộc Hà Bắc), Chiêm Hóa (Tuyên Quang), Thái Nguyên, Bắc Cạn, Cao Bằng, Hà Tây (vùng Sơn  Tây cũ).

Cần chú ý là ở những rừng ở thung lũng có tán che dày, tuy có độ ẩm lớn, nhưng nhiệt độ thấp và thiếu ánh sáng mặt trời ở độ khuyếch tán nhất định cũng không thấy nấm hương mọc. Nói là trồng nấm hương, nhưng thực tế chỉ là hạ cây xuống, đốn thành khúc, chém, bập vào khúc gỗ thành những vết nông cho "ma nấm dễ bám" rồi chờ cho nấm tự mọc.

Có nơi như Chũ (Bắc Giang cũ) người ta dùng nước đã ngâm nấm hương một đêm để tưới lên cây gỗ. Ở Hòa  Bình người ta dùng nước vo gạo để tưới, hoặc dùng một phần gừng, một phần nấm hương khô xát vào thân cây cho nấm dễ mọc.

Gỗ côm được ưa chuộng nhất dùng để trồng nấm hương, vì nấm hương mọc trên cây côm có mùi thơm đặc biệt, mặc dầu gỗ côm mục lại không có mùi gì.

Thường vào 4 ngày trước và 4 ngày sau tiết đông chí (khoảng 22 tháng 12 dương lịch) người ta chặt cây trên đỉnh núi; muốn cho nấm tốt người ta chọn những cây đã trưởng thành, có đường kính ít nhất 40cm; phải dùng rìu thật sắc để khỏi tước mất vỏ cây. Bổ những vệt ngang trên thân cây, sâu 6-10cm, cách nhau 50cm đến 1m trên phía có ánh sáng để giúp cho nhựa cây dễ tiết ra và gỗ chóng mục. Năm sau vào tháng 12, sau trận mưa phùn đầu tiên độ 8 đến 15 ngày là có thể hái nấm đợt đầu tiên trên các cành cây mục trước.

Nhưng nấm năm đầu nhỏ và ít thơm. Đợt hái chính là vào năm sau nữa, mùa mưa phùn (từ tháng 12 đến tháng 3) cho tới năm thứ 6 nghĩa là khi cây đã mục hết. Nấm chỉ mọc trên phía hướng về ánh sáng nghĩa là 1 phần 3 đường vòng tròn của cây.

Khuẩn ty thể tập trung ở trong bề dày của vỏ cây và ngay dưới vỏ, do đó ta nên nghiên cứu cách dùng vỏ cây để trồng nấm như vậy đỡ phí gỗ. Sau khi nấm mọc 5-6 ngày thì hái nấm (vào thời kỳ có mưa phùn). Nếu trời khô hanh thì phải 12-15 ngày nấm mới phát triển đầy đủ. Nếu hái chậm những bào tử sẽ rời khỏi bản và mũ nấm sẽ héo đi. Nếu tiết trời thuận lợi và hái được đều thì một khúc cây to 40cm, dài 5m có thể sản xuất trong 3 tháng từ 5 đến 10kg nấm tươi, nghĩa là 1 đến 2kg nấm khô.

Hái xong phơi nắng hay sấy trên bếp đun. Nấm phơi nắng giữ được màu sắc và hương thơm tế nhị. Nấm sấy trên bếp có màu sẫm hơn và có mùi khói. Với cách trồng như vậy, các cụ già người Mèo vùng cao Lào cai có hàng "mỏ nấm" trong rừng. Và hàng năm vùng đồng bằng tiêu thụ khoảng 8300kg nấm hương khô.

Nhưng làm như trên, không phải bao giờ và ở đâu cũng thành công và có thu hoạch. Cho nên mấy năm gần đây, tại huyện Sapa đã thành lập trại nghiên cứu nấm hương. Từ những bào tử của nấm hương hoang dại, trại đã nhân và phát triển giống nhanh, rẻ, chủ động. Trại cũng đã nghiên cứu những loại gỗ có thể dùng để cấy nấm, điều kiện tự nhiên, thời vụ và kỹ thuật cấy nấm.

Theo báo cáo của Lào Cai thì trong năm 1973, hợp tác xã Xeo Mí Tỉ của người Mèo huyện Sapa đã cấy 18600m gỗ nấm với dự kiến xuân 1974 sẽ thu hoạch đợt đầu. Năm 1974, Sapa cấy 10 vạn mét gỗ nấm, để cùng với vùng cao huyện Bát Xát năm 1974, toàn tỉnh sẽ thu khoảng 30 tấn nấm hương (tính trên khúc cây dài 1m, một năm thu được 1kg nấm tươi).

C. THÀNH PHẦN HÓA HỌC

Hiện nay mới chỉ biết trong 100g nấm đã sấy khô trung bình có 12,5g chất đạm, 1,6g chất béo, 60g chất đường, 16mg canxi, 240mg lân và 3,9mg sắt.Những chất khác chưa rõ.

D. CÔNG DỤNG VÀ LIỀU DÙNG

Cho đến nay nấm hương chỉ mới được dùng như một loại thực phẩm cao cấp có giá trị cao trên thị trường trong nước và xuất khẩu.

Một số vùng người ta đốt nấm hương tồn tính uống chữa lỵ.

Ngày dùng 4-6g.

Tuy nhiên chưa được thấy dùng phổ biến, có lẽ vì nấm hương đắt, hiếm.

Chú thích: Trung Quốc khai thác loài nấm Lentinus edodes (Berk.) Sing thuộc  họ Pleurotaceae làm nấm hương hay hương cố.

Nguồn: Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tác giả: Giáo sư Tiến sĩ khoa học ĐỖ TẤT LỢI



Xin vui lòng ghi rõ nguồn http://www.dotatloi.com khi phát hành lại thông tin.


Tuyên bố miễn trừ trách nhiệm:
Thông tin trên www.dotatloi.com chỉ phục vụ nghiên cứu học tập và mở rộng kiến thức. Không sử dụng làm căn cứ để tiến hành chẩn trị trên lâm sàng. Thông tin trên www.dotatloi.com có thể được trích dẫn, thu thập từ các ấn phẩm, các trang tin điện tử liên quan trong nước và ngoài nước. Nếu phát sinh vấn đề bản quyền, kính đề nghị phản hồi cho chúng tôi.

Viết bình luận

Để thuận tiện cho việc đăng tải, xin vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.
Chúng tôi mong muốn nhận được những bình luận theo hướng mở rộng hoặc bổ sung thông tin liên quan đến bài viết.
Chúng tôi sẽ khóa những bình luận có ngôn từ mang tính kích động hoặc bất nhã.

focus Hải sâm
02/07/2025 08:45 CH

- 海参. Còn gọi là đỉa biển - đỉa bề, sea-slug (Anh). Tên khoa học Stichopus selenka.

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu
Tên vị thuốc Mô tả
Cửu lý hương - 臭草. Còn gọi là rue tetide, văn hương. Tên khoa học Ruta graveolens L. Thuộc họ Cam quít (Rutaceae).
Dạ minh sa - 夜明砂. Còn gọi là phân con dơi, thiên thử phẩn, biên bức phần. Tên khoa học Excrementum Vespertilii hay Faeces Vespertiliorum. Vì phân con dơi ban đêm trông nhấp nhánh như cát cho nên gọi là dạ minh sa (dạ là đêm, minh là sáng, sa là cát).
Da voi - 像皮 (象皮). Còn gọi là tượng bì. Tên khoa học Corium Elephatis. Tượng bì là da con voi cạo sạch lông phơi khô.
Đại bi - 艾納香 (艾纳香). Còn gọi là băng phiến, mai hoa băng phiến, mai phiến, long não hương, mai hoa não, ngải nạp hương, ngải phiến, từ bi. Tên khoa học Blumea balsamifera (L.) DC. (Conyza balsamifera L. Baccharis salvia Lour.). Thuộc họ Cúc Asteraceae (Compositae). Băng phiến, (Bocneola hay Borneo - camphor) có thể do 3 nguồn gốc: (1) Chế từ gỗ cây long não hương (Dryobalanops aromatica Gaertn.) thuộc họ Dầu hoặc họ Song dực quả (Dipterocarpaceae). Cây này chưa thấy ở nước ta; (2) Chế từ cây đại bi hay từ bi hoặc từ bi xanh Blumea balsamifera DC., thuộc họ Cúc (Compositae). Cây này có ở nước ta và sẽ giới thiệu kỹ sau đây; (3) Chế bằng phương pháp tổng hợp hóa học, không giới thiệu ở đây.
Đài hái - 油瓜. Còn gọi là du qua, dây mỡ lợn, dây hái, then hái, mướp rừng, dây sén, mak khing (Lào), Kigarasu-uri (Nhật). Tên khoa học Hodgsonia macrocarpa (Blume) Cogn. (Trichosanthes macrocarpa Blume). Thuộc họ Bầu bí (Cucurbitaceae).
Đại hoàng - 大黃. Còn gọi là xuyên đại hoàng, tướng quân. Tên khoa học Rheum sp. Thuộc họ Rau răm (Polygonaceae). Đại hoàng (Rhizoma Rhei) là thân rễ phơi hay sấy khô của nhiều loại đại hoàng như chưởng diệp đại hoàng Rheum palmatum L., đường cổ đặc đại hoàng Rheum tanguticum Maxim. ex Regel (Rheum palmatum L. var. tanguticum Maxim.) hoặc dược dụng đại hoàng Rheum officinale Baill. hoặc một vài loài Rheum khác, tất cả đều thuộc họ Rau răm (Polygonaceaea). Vì vị thuốc màu rất vàng cho nên gọi là đại hoàng; vì có khả năng tống cái cũ, sinh cái mới rất nhanh chóng như dẹp loạn cho nên còn gọi là tướng quân.
Đại phong tử - 大風子. Còn gọi là chùm bao lớn, krabao phlêthom (Cămpuchia). Tên khoa học Hudnocarpus anthelmintica Pierre. Thuộc họ Mùng quân (Flacourtiaceae). Cây đại phong tử cho vị thuốc đại phong tử (Semen Hydnocarpi) là hạt phơi hay sấy khô của cây đại phong tử. Tên Hydnocarpus do hai chữ hydnon có nghĩa là một loài cây, carpus là quả nghĩa là quả giống một loài cây đã biết, anthelmintica do chữ Hy Lạp anti là chống lại, helminthe là trùng trong ruột ý muốn nói tác dụng của vị này đối với ký sinh trong ruột. Phong là tên Đông y của bệnh hủi và giống hủi, đại phong tử là loại quả to có tác dụng chữa bệnh hủi và giống hủi - tên này do Lý Thời Trân ghi chép trong cuốn Bản thảo cương mục (1595).
Đại phúc bì Là vỏ ngoài giữa phơi hay sấy khô của quả cau (xem cây cau). Thường các mảnh vỏ này được đập làm 2 mà phơi cho chóng khô.
Đại táo - 大棗 (大枣). Còn gọi là táo tàu; táo đen, táo đỏ. Tên khoa học Zizyphus sativa Mill. Thuộc họ Táo (Rhamnaceae). Đại táo (Fructus Zizyphi) là quả chín phơi hay sấy khô của cây táo tàu.
Dâm bụt - 朱槿. Còn gọi là bụp (miền Nam), xuyên can bì. Tên khoa học Hibiscus rosa-sinensis L.. Thuộc họ Bông (Malvaceae).
Dâm dương hoắc - 淫羊藿. Dâm hương hoắc (Herba Epimedii) là toàn cây phơi hay sấy khô của nhiều loài cây thuốc chi Epimedium như dâm dương hoắc lá to - Epimedium macranthum Morr-et Decne, dâm dương hoắc lá mắc - Epimedium sagittatum (Sieb, et Zucc.) Maxim. (E. sinense Sieb. ex Hance) hoặc cây dâm dương hoặc lá hình tim - Epimedium brevicornu Maxim, đều thuộc họ Hoàng liên gai (Berberidaceae). Tên dâm dương hoắc là vì cây cho lá dê hay ăn mà lại có tính chất làm tăng ham dâm dục.
Đảm phàn - 膽礬 (胆矾). Còn gọi là thạch phàn. Tên khoa học chalcanthitum, vitriolum caeruleum. Đảm phàn là một khoáng vật thiên nhiên có chứa đồng sunfat (CuSO4) hoặc là một sản phẩm do chế tạo hóa học mà có. Đảm phàn dược dùng từ lâu trong Đông y, có ghi trong "Thần nông bản thảo", một bộ sách cổ nhất của Trung Quốc.
Đạm trúc diệp - 淡竹葉 (淡竹叶). Còn gọi là trúc diệp, toái cốt tử, trúc diệp mạch đông, mễ thân thảo, sơn kê mễ. Tên khoa học Lophatherum gracile Brongn. (Acroelytrum japonicum Steud.). Thuộc họ Lúa (Gramineae). Đạm trúc diệp (Herba Lophatheri) là toàn cây đạm trúc diệp phơi hay sấy khô.
Đan sâm - 丹參 (丹参). Còn gọi là huyết sâm, xích sân, huyết căn. Tên khoa học Salvia multiorrhiza Bunge. Thuộc họ Hoa môi (Labiatae). Đan sâm (Radix Salviae multiorrhizae) là rễ phơi hay sấy khô của cây đan sâm. Đan là đỏ, sâm là sâm vì rễ cây này giống sâm mà lại có màu đỏ.
Đằng hoàng - 藤黄. Còn gọi là vàng nhựa, vàng nghệ, gommegutte, đom rông, cam rông, roeng (Campuchia). Tên khoa học Garcinia hanburyi Hook. f [Cambogia gutta Lour, (non L.)]. Thuộc họ Măng cụt Clusiaceae (Guttiferae). Đừng nhầm vị đằng hoàng (Gomme gutte) với vị hoàng đằng. Đằng hoàng là vị thuốc được dùng cả trong đông y và tây y. Các tài liệu cổ của Trung Quốc đã ghi từ thế kỷ thứ X và trong Bản thảo cương mục của Lý Thời Trân (Trung Quốc) có ghi vị này (Thế kỷ XVI). Đằng hoàng được dùng ở châu Âu vào năm 1603 (lúc đầu người ta cho đây là dịch mủ của một cây loại xương rồng, mãi tới 1864 Hanburyi mới nghiên cứu xác minh cẩn thận).
Đảng sâm - 黨參 (党参). Còn gọi là phòng đảng sâm, lộ đảng sâm, xuyên đảng sâm, đông đảng sâm, rầy cáy (Lạng Sơn), mần cáy. Tên khoa học Codonopsis sp. Thuộc họ Hoa chuông (Campanulaceae). Đảng sâm (Radix Codonopsis) là rễ phơi khô của nhiều loài Codonopsis như Codonopsis pilosula (Franch) Nannf, Codonopsis tangshen Oliv. (xuyên đảng sâm) và một số Codonopsis khác, đều thuộc họ Hoa chuông. Tên đảng sâm là do vị thuốc giống như sâm, sản xuất ở một địa phương gọi là quận Thượng Đảng (Trung Quốc). Ở Cao Bằng, Lạng Sơn, người Thổ gọi đảng sâm là cỏ rầy cáy, hay mần cáy, lầy cáy.
Dành dành - 栀子. Còn gọi là sơn chi tử, chi tử. Tên khoa học Gardenia jasminoides Ellis (Gardenia florida L.). Thuộc họ Cà phê (Rubiaceae). Cây dành dành cho ta vị thuốc gọi là chi tử. Chi tử (Fructus Gardeniae) là quả dành dành chín phơi hay sấy khô. "Chi" là chén đựng rượu, "tử" là quả hay hạt, vì quả dành dành giống cái chén uống rượu ngày xưa. Gardenia là tên nhà y học kiêm bác học, Florida là nhiều hoa.
Đào - 桃. Tên khoa học Prunus persica Stokes (Amygdalus persica L.). Thuộc họ Hoa hồng (Rosaceae). Cây đào cho ta các vị thuốc: (1) Nhân hạt đào tức là đào nhân (Semen Persicae); (2) Nước cất lá đào (Aqua Persicae).
ĐỐI TÁC - LIÊN KẾT
[ Lên đầu trang ]