Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu

MƠ - 杏

Còn có tên là ô mai, hạnh, khổ hạnh nhân, abricotier (Pháp), má pheng (Thái), mai.

Tên khoa học Prunus armenniaca L. (Armenniaca vulgarris Lamk).

Thuộc họ Hoa hồng (Rosaceae).

MƠ, 杏, ô mai, hạnh, khổ hạnh nhân, abricotier, má pheng, mai, Prunus armenniaca L., Armenniaca vulgarris Lamk, họ Hoa hồng, Rosaceae

Cành mơ - Prunus armenniaca

Cây mơ cho ta những vị thuốc sau đây:

   1. Khổ hạnh nhân (Semen Armeniaca amarae) là hạt khô của cây mơ.

   2. Nước cất hạt mơ Aqua Armeniniacae chế từ hạt mơ.

   3. Ô mai (Fructus Armeniacae praeparatus) là quả mơ chế và phơi hay sấy khô.

   4. Dầu hạnh nhân (Oleum Armeniacae) dầu ép từ hạt mơ.

A. MÔ TẢ CÂY

Cây mơ là một loại cây nhỏ, cao chừng 4-5m.

Lá mọc so le, có cuống phiến lá hình bầu dục, nhọn ở đầu, mép lá có răng cưa nhỏ. Cuối mùa đông ra hoa có 5 sắc trắng hoặc màu hồng, mùi thơm.

Quả chín vào tháng 3-4. Đây là một quả hạch, hình cầu, màu vàng xanh: Có nhiều thịt trong có một hạt. Ngoài cây mơ nói ở đây, tại một số tỉnh miền Bắc có loài song mai, mỗi đốt mọc 2 quả được coi quí hơn.

B. PHÂN BỐ, THU HÁI VÀ CHẾ BIẾN

Mọc hoang và được trồng nhiều nhất ở Hà Tây (vùng chùa Hương, thuộc huyên Mỹ Đức), Nam Hà (huyện Kim Bảng), Thanh hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh cũng có. Còn mọc ở Liên Xô cũ (tại nước cộng hòa Acmênia), Trung quốc, Nhật Bản.

Quả mơ hái vào tháng 3-4 (tháng 2-3 âm lịch), khi quả mơ chín (vỏ vàmg ) hái về tãi mỏng. Tùy theo chế mơ trắng (bạch mai) hay mơ đen (ô mai) cách chế biến khác nhau.

Chế bạch mai hay diêm mai. Khi quả mơ phơi đã héo, thì dùng muối xát đều, sau đó bỏ vào vại sành muối như muối cà (không đổ nước), muối 3 ngày 3 đêm thì vớt ra, phơi cho tái tái rồi lại cho vào vại muối lần thứ hai, thêm một ngày một đêm nữa, rồi phơi cho thật khô. Muối thấm vào quả mơ kết tinh thành một lớp trăng trắng nên gọi là bạch mơ (bạch = trắng) ta còn gọi là ô mai muối mặc dầu chữ ô mai dùng ở đây không đúng.

Chế ô mai (ô = đen, mai = mơ): Hái những quả mơ thật già đem về tãi mỏng ở những nơi mát trong 3 ngày cho héo, sau đó đun nước sôi, cho quả mơ vào cho đến khi da mơ nhăn lạI, cho vào chõ đồ rồi lại phơi. Làm như vậy 6-7 lần cho đến khi quả mơ tím đen là được. (Kiểu 9 lần đồ, 9 lần phơi hay cửu chưng, cửu sái). Có nơi đem về đồ ngay rồi phơi,  phơi héo lại đồ, làm như vậy chín lần cho đến khi quả mơ có màu đen thì phơi khô kiệt là được.

Theo kinh nghiệm chế biến của tỉnh Phúc Kiến (Trung Quốc) và một số nơi của ta, người ta có thể chế ô mai bằng cách hái về cho vào lò sấy bằng khói than củi nhiệt độ không quá 40oC cho khô và hơi có màu vàng đen sẫm thì cất vào kho để một thời gian cho ngả màu đen là được. Sau đó loại bỏ hạt chỉ lấy thịt thôi. Hơi khói ở đây giúp cho sự bảo quản.

Chế ô mai cam thảo: Có khi người ta thêm vào mơ gừng, cam thảo và muối cũng gọi là ô mai.

Chế nước cất hạt mơ:

   - Hạt mơ nhân 1200g; nước lã 2000ml; cồn 90o vừa đủ; Nước cất vừa đủ;

   - Giã nhân hạt mơ, ép bỏ dầu đi (dầu hạt mơ này có thể dùng tên dầu hạnh nhân). Cho bã vào nồi cất thêm nước lã vào. Khuyấy đều. Để yên hai giờ trở lên. Cất lấy hơi nước. Đầu ống dẫn hơi được nhúng vào bình trong đó đã chứa 300ml cồn 90o.

   - Khi cất được tất cả cồn và nước chừng 900ml thì thôi. Lấy một ít nước này, định lượng axit xyanhydric. Dùng một hỗn hợp một phần cồn và 3 phần nước cất (tính theo thể tích) để pha thêm vào chỗ cất được để cứ 100ml có 0,10g axit xyanhydric như vậy ta sẽ được nước cất hạt mơ dùng làm thuốc.

Chế rượu mơ:

   - Mơ chín mua về rửa sạch, để ráo nước. Cho vào bình có nút kín. Cứ cân mơ thêm 1 lít rượu 50o. Ngâm trong thời gian một tháng trở lên. Gạn lấy rượu này. Thêm vào bã còn lại 1 lít rượu 50o mới. Lại ngâm từ 1 tháng trở lên. Gạn lấy rượu. Sau khi gạn rượu rồi, những quả mơ còn lại có thể ướp muối làm ô mai như trên.

C. THÀNH PHẦN HÓA HỌC

Trong thịt quả mơ có chừng 2,5% axit trong đó chủ yếu gồm axit xitric, axit tactric, độ 27% chất đường (chủ yếu là sacaroza), một ít dextrin, tinh bột, quexetin, izoquexetin, caroten, lycopen, vitamin C, tanin, pectin, metylsalixylat, men peroxydaza và ureaza.

IMG

Năm 1968, từ quả mơ, người ta chiết được một chất có tác dụng đối với vi trùng lao Mycobacterium tuberculosis. Tác dụng này có liên quan đến sự có mặt của axit xitric và malic (Chemical abstract 1968. 69 - 686C).

Nhân hạt mơ chứa 35-40% chất dầu (gọi là dầu hạnh nhân) và 3% chất amygdalin C20H27O11 và men emunsin. Men Emunsin gồm 2 men là men amydalaza và men prunaza.

Amygdalin chịu tác dụng của men emunsin cho axit xyanhydric, andehyt benzoic hay benzandehyt và glucoza:

IMG

Năm 1951, người ta phát hiện trong dung dịch hạt mơ một chất axit được đặt tên là axit pangamic. Về sau người ta xác định axit pangamic chính là vitamin B-15 được phát hiện lần đầu tiên vào năm 1950 trong gan bò. Vitamin B-15 có trong nhân hạt mơ với một tỷ lệ khá cao.

Người ta còn chiết được vitamin B-15 trong mầm thóc và trong cám gạo, men bia, máu bò và gan ngựa. Vitamin B-15 có tác dụng kích thích quá trình chuyển hóa oxy trong tế bào làm cho tế bào chóng hồi phục và làm cho cơ thể chậm già.

Hiện nay vitamin B-15 được dùng trong những bệnh về tim, phổi (nhồi máu cơ tim, tràn khí phổi, vữa động mạch), viêm gan và xơ gan trong giai đoạn đầu... Cấu trúc của axit pangamic hay vitamin B-15 đã được xác định là este của axit gluconic và dimetylglyxin.

Dầu hạt mơ  hay dầu hạnh nhân có tỷ trọng 0,91-0,92, chỉ số xà phòng 188-198, chỉ số iôt 100-108. Thành phần chủ yếu của dầu hạt mơ là axit oleic và axit linoleic.

D. TÁC DỤNG DƯỢC LÝ

Năm 1971, Đỗ Tất Lợi, Bùi Thụ và cộng sự (Tạp chí y học 3-1971, tr. 34-40) dựa vào tính chất chỉ khái, sinh tân dịch của mơ ghi trong những tài liệu cổ và còn truyền tụng trong nhân dân đã nghiên cứu trên công nhân thuỷ tinh làm việc ở những khu vực có nhiệt độ cao thường xuyên, theo phương pháp có đối chứng plaxebo đã đi đến những kết luận sau đây:

   Nước quả mơ pha đường có tác dụng làm cho công nhân làm việc ở nơi nóng, khô đỡ khát nước, giảm lượng mồ hôi, giảm lượng nước uống, giảm lượng muối mất đi do mồ hôi trong lao động.

   Nước quả mơ pha đường còn làm thời gian phản xạ ít kéo dài hơn và làm sức bền bỉ dẻo dai ít giảm sút vào cuối buổi lao động cũng như bớt được hiện tượng đái ra máu vi thể?

Năm 1972, Đỗ Chung Võ, Lê Thị Minh Liên và cộng sự đã tiến hành thí nghiệm tương tự trên công nhân lò nóng ở nhà máy xi măng Sài Sơn (Hà Tây) bằng nước muối mơ (dư phẩm chế ô mai) cũng đi đến những kết luận tương tự.

Người ta cho rằng thịt quả mơ  có tác dụng là do các axit hữu cơ, chất đường, vitamin C...

Nhân hạt mơ  tác dụng do chất amygdalin. Chất này vào cơ thể sẽ cho HCN và andehyt benzoic hay benzandehyt. Chất HCN tác dụng đối với trung khu thần kinh, lúc đầu có tác dụng hưng phấn, sau ức chế có thể dẫn tới co quắp và sau đó hôn mê. Đối với khu trung hô hấp lúc đầu cũng có tác dụng kích thích, về sau ức chế.

Nhưng HCN là một chất độc, dùng quá liều có thể gây tử vong, nhưng khi dùng liều nhỏ hoặc uống amygdalin vào cơ thể, chất HCN chỉ giải phóng từ từ sẽ có tác dụng trấn tĩnh trung khu hô hấp do đó dùng để chữa ho.

Gần đây, với sự phát hiện ra vitamin B-15 trong hạt mơ, một số tác dụng dùng mơ chế rượu uống cho những người có tuổi có thể được giải thích.

E. CÔNG DỤNG VÀ LIỀU DÙNG

Nước cất hạt mơ có độc, dùng phải cẩn thận. Dùng để chữa ho, khó thở, nôn mửa, đau dạ dày.

Mỗi lần dùng 0,5 đến 2ml. Cả ngày có thể dùng 2 đến 6ml. Liều tối đa một lần 2ml. Liều tối đa cả ngày là 6ml.

Ô mai được dùng trong nhân dân làm thuốc chữa ho, trừ đờm, hen xuyễn, khó thở, phù thũng. Ngậm hoặc sắc uống.

Ngày uống từ 3 đến 6g. Còn dùng chữa giun (phối hợp với các vị thuốc khác) đặc biệt trong trường hợp giun chui ống mật, ô mai có tác dụng do môi trường axit làm cho giun chui khỏi ống mật trở về ruột và bị tống ra. Ô mai còn dùng chữa chai chân, làm rụng trĩ.

Dầu hạt mơ làm thuốc bổ, thuốc nhuận tràng với liều 5-15ml dùng dưới hình thức thuốc sữa. Dầu hạt mơ còn dùng làm thuốc bôi trừ nẻ, bôi tóc cho trơn và bóng.

Rượu mơ dùng làm rượu bổ giúp cho ăn ngon cơm, đỡ khát nước. Có thể pha nước uống giải khát. Ngày uống 30-60ml.

Đơn thuốc có mơ và ô mai:

   - Chữa kiết lỵ khát nước: Ô mai 2-3 quả, thêm nước vào đun sôi giữ sôi 15 phút. Dùng uống thay nước trong ngày.

   - Chữa giun chui ra mồm, mũi: Ô mai hai quả, thêm 300ml nước, đun sôi giữ sôi 15 phút, thêm đường vào cho vừa đủ ngọt, cho uống vào buổi tối trước khi đi ngủ.

   - Chữa băng huyết: Ô mai 7 quả, thiêu tồn tính, tán nhỏ, chia làm ba lần uống trong ngày. Dùng nước cơm để chiêu thuốc.

Chú thích: Thuốc cùng loại với hạt mơ có vị hạnh nhân (ta chưa có) và đào nhân (hạt đào). Xem vị đào: http://www.dotatloi.com/nhung-cay-thuoc-va-vi-thuoc-viet-nam/ket-qua-tra-cuu/dao.

Nguồn: Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tác giả: Giáo sư Tiến sĩ khoa học ĐỖ TẤT LỢI



Xin vui lòng ghi rõ nguồn http://www.dotatloi.com khi phát hành lại thông tin.


Tuyên bố miễn trừ trách nhiệm:
Thông tin trên www.dotatloi.com chỉ phục vụ nghiên cứu học tập và mở rộng kiến thức. Không sử dụng làm căn cứ để tiến hành chẩn trị trên lâm sàng. Thông tin trên www.dotatloi.com có thể được trích dẫn, thu thập từ các ấn phẩm, các trang tin điện tử liên quan trong nước và ngoài nước. Nếu phát sinh vấn đề bản quyền, kính đề nghị phản hồi cho chúng tôi.

Viết bình luận

Để thuận tiện cho việc đăng tải, xin vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.
Chúng tôi mong muốn nhận được những bình luận theo hướng mở rộng hoặc bổ sung thông tin liên quan đến bài viết.
Chúng tôi sẽ khóa những bình luận có ngôn từ mang tính kích động hoặc bất nhã.

focus Vừng
04/06/2025 02:08 SA

- 芝麻. Còn gọi là mè, du tử miêu, cự thắng tử, chi ma, bắc chi ma, hồ ma. Tên khoa học Sesamum orientale L. Sesamum indicum Dc. Sesamum lutrum Retz. Thuộc họ Vừng (Pedaliaceae). Vừng và vừng đen (Semen Sesami) là vừng của rợ Hồ (tên cổ người Trung Quốc gọi n...

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu
Tên vị thuốc Mô tả
Bướm bạc - 玉葉金花 (玉叶金花 ). Còn gọi là bướm bướm, hoa bướm, bứa chừa (Thái). Tên khoa học Mussaenda pubescens Ait. f. Thuộc họ Cà phê (Rubiaceae).
Cà chua - 番茄. Còn gọi là cà dầm, tomate (Pháp). Tên khoa học Lycopersicum esculentum Mill. Thuộc họ Cà (Solanaceae).
Cà dái dê tím - 茄子. Tên khoa học Solanum melongena L. Thuộc họ Cà (Solanaceae).
Cà dại hoa tím - 刺天茄. Còn gọi là cà hoang, cà gai, cà hoang gai hoa tím. Tên khoa học Solanum indicum L. Thuộc họ Cà (Solanaceae).
Cà dại hoa trắng - 水茄. Còn gọi là cà pháo, trăng lao (Buôn ma thuột). Tên khoa học Solanum torvum Swartz. Thuộc họ Cà (Solanaceae).
Cà dại hoa vàng - 薊罌粟 (蓟罂粟). Còn có tên là cà gai, cây gai cua, cây mùi cua, lão thử lực. Tên khoa học Argemone mexicana L.. Thuộc họ Thuốc phiện (Papaveraceae).
Cà gai leo - 細顛茄 (细颠茄). Còn gọi là cà quính, cà quánh, trap khar (Campuchia), Blou xít (Lào). Tên khoa học Solanum proucumbens Lour. (Solanum hainanense Hance). Thuộc họ Cà (Solanaceae).
Cà rốt - 胡蘿蔔 (胡萝卜). Còn gọi là hồ la bặc (Trung Quốc). Tên khoa học Daucus carota L. Thuộc họ Hoa tán (Umbelliferae).
Cà tàu - 黄果茄. Còn gọi là cà dại trái vàng. Tên khoa học Solanum xanthocarpum Schrad và Wondl. Thuộc họ Cà (Solanaceae).
Các loại sâm Đông y coi sâm là vị thuốc đứng đầu các vị thuốc bổ, theo thứ tự sâm, nhung, quế, phụ. Sâm nói ở đây là vị nhân sâm.
Cải bắp - 卷心菜. Tên khoa học Brassia oleracea Linn. var capitata D. C. Thuộc họ cải (Brassicaceae).
Cải canh - 芥菜. Còn có tên là cải dưa, cây rau cải, giới tử. Tên khoa học Brassica juncea (l.) Czermet Coss. (Sinapis juncea L.). Thuộc họ Cải (Brassicaceae). Giới tử Sinapis - Semen Sinapis hay Semen Brassicae junceae là hạt phơi hay sấy khô lấy ở quả chín của cây cải canh.
Cải cúc - 茼蒿. Còn gọi là rau cúc, cúc tần ô, đồng hao (T.Q.), chrysanthème des jardins, chrysan thème à couronne. Tên khoa học Chrysanthemum coronarium L. Thuộc họ Cúc Asteraceae (Compositae).
Cải xoong - 豆瓣菜. Còn gọi là đậu ban thái, thủy điều thái, tây dương thái. Tên khoa học Nasturtium offcinale R. Br. (Roripa nasturtium aquaticum Hayek). Thuộc họ Cải (Cruciferae). Đây là một cây vốn không mọc tự nhiên ở nước ta, hiện được trồng ở khắp nơi. Tên cải xoong do tên chữ Pháp Cresson phiên âm ra. Cải xoong vừa là thức ăn, vừa cho ta thân và lá để làm thuốc.
Cam thảo - 甘草. Cam thảo là một vị thuốc rất thông dụng trong đông y và tây y. Tuy nhiên ở nước ta, tên cam thảo dùng để chỉ 3 vị thuốc khác nhau. Cần chú ý để tránh nhầm lẫn: (1) Cam thảo bắc - 甘草; (2) Cam thảo dây - 相思藤; (3) Cam thảo nam - 野甘草.
Cam thảo bắc - 甘草. Còn có tên là bắc cam thảo, cam thảo, sinh cam thảo, quốc lão. Tên khoa học Clycyrrhiza uralensis Fish và Glycyrrhiza glabra L. (G. glandulifera Waldst et Kit). Thuộc họ Cánh bướm Fabaceae (Papilionaceae). Cam thảo (Radix Glycyrrhizae) là rễ và thân rễ phơi hay sấy khô của cây cam thảo nguồn vùng Uran (Glycyrrhiza uralensis) hay cây cam thảo châu Âu Glycyrrhiza glabra L. Tên cam thảo vì cam là ngọt, thảo là cỏ; cỏ có vị ngọt. Glycyrrhiza vì do chữ Hy lạp glykos là ngọt và riza là rễ, rễ có vị ngọt, uralensis vì sản xuất ở vùng núi Uran, dãy núi nằm giữa châu Á, châu Âu.
Cam thảo dây - 相思藤. Còn gọi là tương tư tử, tương tự đậu, tương tư đằng, dây cườm, dây chi chi, ang krang, angkreng (Cămpuchia). Tên khoa học Abrus precatorius L. (Abrus minor et pauciflorus., Glycine abrus L.). Thuộc họ Cánh bướm Fabaceae (Papilionaceae). Dây cam thảo cho những bộ phận dùng làm thuốc sau đây: (1) Rễ và lá dùng thay cam thảo bắc ở nhiều nước, do đó còn có tên liane rélisse (dây cam thảo), réglisse d'Amérique (cam thảo châu Mỹ), réglisse indienne (cam thảo Ấn Độ). (2) Hạt là tương tư tử - Semen Abri (Semen Jequiriti).
Cam thảo nam - 野甘草. Còn có tên là dã cam thảo (Trung Quốc), thổ cam thảo (Trung Quốc), giả cam thảo. Tên khoa học Seoparia dulcis L. Thuộc họ Hoa mõm chó (Scrophulariaceae). Cam thảo nam (Herbra Sceopariae) là toàn cây tươi hoặc phơi khô sấy khô của cây cam thảo nam.
ĐỐI TÁC - LIÊN KẾT
[ Lên đầu trang ]