MẮC KẸN - 七葉樹 (七叶树)
Còn gọi là bàm bàm, ma keyeng, may kho, marronier.
Tên khoa học Aesculus sinenisis Bunge.
Thuộc họ Bồ Hòn (Sapindaceae).
Mắc kẹn - Aesculus sinenisis
A. MÔ TẢ CÂY
Cây nhỏ cao 3-5cm. Lá kép chân vịt, có cuống chung dài tới 25cm; lá chét hình mác thuôn, dài 20cm, rộng 6cm, dai, nhẵn, mép có răng cưa nhỏ. Hoa trắng, mọc thành chùy hình tháp, chiều dài vượt quá lá.
Khi cây được 4-5 tuổi thì bắt đầu ra quả. Một cây trưởng thành có thể cho mỗi năm 20-25kg quả. Mùa hoa tháng 3-4; mùa quả tháng 9-10.
B. PHÂN BỐ, THU HÁI VÀ CHẾ BIẾN
Mắc kẹn mọc hoang và được trồng tại một số tỉnh ở miền Bắc nước ta, nhiều nhất tại những vùng có núi đá vôi như Lạng Sơn, Cao Bằng, Hòa Bình, Hà Tây, Bắc Thái, Tuyên Quang. Còn mọc ở Lào, Hoa Nam Trung Quốc. Tại Hà Nội một số phố có trồng làm cây bóng mát.
Người ta dùng quả mắc kẹn để ăn và ép dầu; vỏ cây dùng duốc cá.
C. THÀNH PHẦN HÓA HỌC
Trong hạt mắc kẹn có 36% tinh bột, 27-30 dầu và saponin.
Dầu mắc kẹn là một thứ dầu gồm hai phần, phần đặc ở nhiệt độ 22oC và phần lỏng. Phần đặc chiếm hơn 10% gồm tristearin chảy ở 69-70oC, khi xà phòng hóa cho axit stearic, có độ chảy 68o5.
Phần lỏng có chỉ số xà phòng 202, chỉ số iốt 67,5, chỉ số axit 51. Bã sau khi ép bỏ dầu và loại saponin có thể dùng cho lên men.
D. CÔNG DỤNG VÀ LIỀU DÙNG
Vỏ cây mắc kẹn được dùng để duốc cá do thành phần saponin trong đó. Bã hạt sau khi ép dầu cũng có thể dùng.
Hạt mắc ken đượcc dùng ép dầu, dầu này có thể dùng làm xà phòng cứng rất tốt.
Viết bình luận
Để thuận tiện cho việc đăng tải, xin vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.
Chúng tôi mong muốn nhận được những bình luận theo hướng mở rộng hoặc bổ sung thông tin liên quan đến bài viết.
Chúng tôi sẽ khóa những bình luận có ngôn từ mang tính kích động hoặc bất nhã.