Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu

MA HOÀNG - 麻黃

Còn gọi là thảo ma hoàng, xuyên ma hoàng sơn ma hoàng, mộc tặc ma hoàng, mộc ma hoàng, trung ma hoàng.

Tên khoa học Ephedra sinica Stapf., Ephedra equisetina Bunge, Ephedra intermedia Schrenk et Mey.

Thuộc họ Ma hoàng (Ephedraceae).

MA HOÀNG, 麻黃, thảo ma hoàng, xuyên ma hoàng sơn ma hoàng, mộc tặc ma hoàng, mộc ma hoàng, trung ma hoàng, Ephedra sinica Stapf., Ephedra equisetina Bunge, Ephedra intermedia Schrenk et Mey., họ Ma hoàng, Ephedraceae

Thảo ma hoàng - Ephedra sinica

Ma hoàng là một vị thuốc thường dùng trong đông y; hiện nay chưa thấy cây này ở Việt Nam.

Một vài nơi giới thiệu và khai thác một cây khác với tên ma hoàng Việt Nam, nhưng chúng tôi thấy không đúng, do đó giới thiệu ở đây để tránh nhầm lẫn. Hiện nay, tại một số nước châu Phi (Angiêri) trồng được ma hoàng có tác dụng, cho nên ta có thể nghiên cứu di thực cây này vào nước ta.

Ma hoàng (Herba Ephedrae) là ngọn hay phần trên mặt đất của nhiều loài ma hoàng phơi hay sấy khô.

Tên ma hoàng vì vị thuốc có vị ma (cay cay tê tê, không rõ rệt) màu vàng.

Tên Ephedra do chữ Epi có nghĩa là trên, hedra có nghĩa là đất, ý nói là cây thuốc mọc trên đá; chữ sinica có nghĩa là cây nguồn gốc ở Trung Quốc; equisetina là một tặc ý nói có loài ma hoàng giống cây mộc tặc (cỏ tháp bút).

Trên thị trường, thường lưu hành nhiều loài ma hoàng, nhưng chủ yếu có mấy loài sau đây:

   1. Thảo ma hoàng, còn gọi là điền ma hoàng hay xuyên ma hoàng, (Herba Ephedrae sinicae) hái ở cây thảo ma hoàng Ephedrae sinica Bunge.

   2. Mộc tặc ma hoàng, còn gọi là mộc ma hoàng, hay sơn ma hoàng (Herba Ephedrae equisetinae), hái từ cây mộc tặc ma hoàng Ephedrae equisetina Bunge.

   Ngoài ra còn trung ma hoàng (Herba Ephedrae intermediae) hái từ cây trung ma hoàng Ephedra intermedia Schrenk et Mey. Song tuệ ma hoàng hái từ cây song tuệ ma hoàng Ephedra distachya L. v.v...

A. MÔ TẢ CÂY

Thảo ma hoàng - Ephedra sinica - là một cây mọc thẳng đứng cao chừng 30-70cm, thân có nhiều đốt, mỗi đốt dài chừng 3-6cm, trên có rãnh dọc. Lá mọc đối hay mọc vòng từng 3 lá một, thoái hóa thành vẩy nhỏ, phía dưới lá màu hồng nâu, phía trên màu tro trắng, đầu lá nhọn và cong; hoa đực hoa cái khác cành; cành hoa đực nhiều hoa hơn (4-5 đôi); quả thịt, màu đỏ giống như quả nho. Vì cây lại hay mọc ở bờ biển cho nên châu Âu gọi ma hoàng là loại nho biển (Raisin de mer). Hạt hơi thò ra.

Mộc tặc ma hoàng - Ephedra equisetina - cũng là là một cây nhỏ mọc thẳng đứng, cao tới 2m, cành cứng hơn, màu xanh xám hay hơi có phấn trắng, đốt ngắn hơn, thường chỉ dài 1-3cm, lá dài 2mm, màu tía. Hoa đực và hoa cái khác cành; quả hình cầu, hạt không thò ra như thảo ma hoàng.

Như vậy chỉ căn cứ vào chiều dài của đốt ta cũng có thể phân biệt hai loài ma hoàng: Thảo ma hoàng có đốt dài hơn (3-6cm), hạt thò ra, còn mộc tặc ma hoàng đốt ngắn hơn (1-3cm), hạt không thò ra.

Tuy nhiên cũng cần nhớ rằng loài trung ma hoàng Ephedra intermedia cũng có đốt dài như thảo ma hoàng, nhưng đường kính cành trung ma hoàng thường hơn 2mm, còn đường kính thảo ma hoàng chỉ khoảng 1,5-2mm.

B. PHÂN BỐ, THU HÁI VÀ CHẾ BIẾN

Như trên đã nói, ma hoàng chưa thấy ở nước ta, số lượng ta dùng hiện nay đều nhập của Trung Quốc. Đối với thế giới, ma hoàng Trung Quốc cũng được coi là tốt nhất, vì nhiều hoạt chất. Tại Trung Quốc, ma hoàng có nhiều ở Hoa Bắc, Tây Bắc, chủ yếu là mọc hoang.

Ma hoàng dùng trong nước và xuất cảng, loài phổ biến nhất là thảo ma hoàng, rồi đến mộc tặc ma hoàng, thường bán hai thứ lẫn lộn; loài trung ma hoàng thường chỉ tiêu thu trong nước tại nơi có cây, ít khi bán đi nơi khác.

Người ta thường thu hái ma hoàng vào mùa thu, trong khi nghiên cứu định lượng hoạt chất, người ta cũng thấy vào mùa thu, hoạt chất đạt tới 100% thì vào mùa xuân hoạt chất chỉ còn 25-30%, nếu chậm thu hoạch vào mùa đông, hoạt chất còn có 50%.

Trong bộ sách thuốc cổ nhất của Trung Quốc (Thần nông bản thảo), người ta cũng đã quy định ma hoàng phải hái vào tiết lập thu, khi thân còn hơi xanh, bỏ các mấu và quả.

Khoa học hiện nay đã chứng minh kinh nghiệm đó là đúng. Đốt và quả chứa rất ít ancaloit; nếu đợi cây già, ngả màu nâu thì vị thuốc hết hiệu lực, chỉ dùng cho trâu bò ăn mà thôi.

C. THÀNH PHẦN HÓA HỌC

Trước đây ma hoàng chỉ là một vị thuốc kinh nghiệm lâu đời của đông y; vào những năm 1885 và 1887 hai nhà bác học Nhật Bản là nagai và Hamanashi chiết được từ vị ma hoàng ra chất ancaloit gọi là ephedrin. Từ đó ma hoàng được dùng cả trong tây y. Nhưng dần dần, người ta thấy là tùy theo nguồn gốc ma hoàng, hoạt chất thay đổi, tỷ lệ hoạt chất cũng thay đổi.

Trong ma hoàng người ta đã chiết được những hoạt chất chủ yếu sau đây: Ephedrin hay 1. ephedrin C10H15NO, d. psendo ephedrin C10H15NO, 1.N metyl ephedrin C11H17NO, d. N. metyl ephedrin C11H17NO 1. nor ephedrin C9H13NO, d. nor-ephedrin C9H13NO.

IMG

Trong tất cả những hoạt chất kể trên, ephedrin có tác dụng hơn cả, tỷ lệ vào mùa thu cao hơn, có thể đạt tới 1,3%, sau đến d. pseudo ephedrin chừng 0,20%, những hoạt chất khác đều ở những tỷ lệ rất thấp. Sau đây chúng tôi xin giới thiệu tỷ lệ ancaloit toàn phần trong một số loài ma hoàng thường gặp, đồng thời tỷ lệ của chất ephedrin hay 1. ephedrin trong đó:

IMG

Dược điển Trung Quốc có quy định vị ma hoàng dùng làm thuốc phải chứa ít nhất 0,8% ancaloit toàn phần, độ tro không được quá 9%.

Ngoài các chất kể trên, năm 1934 Triệu Thừa Hà và mai Bân Phu (Trung Hoa y học tạp chí 20: 697) đã chiết được từ thảo ma hoàng một chất gọi là ephedin C8H18N2O3, độ chảy 76-87o.

IMG

D. TÁC DỤNG DƯỢC LÝ

Tác dụng dược lý của ma hoàng chủ yếu là tác dụng dược lý của chất ephedrin hay 1. ephedrin. Xem công thức của ephedrin chúng ta thấy khá giống công thức của adrenalin.

Do đó ta thấy tác dụng của ephedrin gần giống tác dụng của adrenalin, tuy có yếu hơn, nhưng thường lâu hơn. Sau đây là một số tác dụng chính:

   1. Tác dụng giống thần kinh giao cảm. Ephedrin có tác dụng làm giãn phế quản, rất thích hợp cho những trường hợp do phế quản co mà thở khó khăn; đối với cơ trơn của ruột và dạ dày, ephedrin có tác dụng ức chế (giảm) nhu động; ephedrin có tác dụng kích thích cơ tim và làm co nhỏ mạch máu ngoại vi, làm cho tim đập nhanh hơn, huyết áp tăng cao và kéo dài; khi trúng độc hoặc nhỏ vào mắt thì làm giãn đồng tử; ephedrin còn là lượng huyết đường tăng cao, chuyển hóa tăng, co nhỏ lá lách làm tăng lượng hồng huyết cầu.

   2. Kích thích thần kinh trung ương. Ephedrin có tác dụng hưng phấn vỏ đại não làm cho tinh thần phấn chấn, giảm ngắn tác dụng gây ngủ của thuốc ngủ, hưng phấn trung khu hô hấp.

   3. Tác dụng miễn dịch nhanh (tachyphylaxie). Nếu dùng ma hoàng hay ephedrin liên tục thì chóng có hiện tượng mọi tác dụng nói trên kém đi rất mâu (đối với adrenalin không có hiện tượng này).

   Về cơ chế tác dụng của ephedrin, hiện nay ý kiến chưa thống nhất: Có tác giả cho rằng do ephedrin có cấu tạo giống như adrenalin cho nên ephedrin có tác dụng trực tiếp trên các cơ quan như adrenalin; nhưng gần đây một số tác giả (Gaddum và Kwiatkowski, 1938; Blaschko, 1952) lại cho rằng ephedrin có tác dụng gián tiếp bằng cách bảo vệ chất adrenalin trong cơ thể khỏi bị phá huỷ bởi men monoaminooxydaza, tuy nhiên giả thuyết của các tác giả này chưa được chứng minh đầy đủ bằng thực nghiệm cho nên còn phải nghiên cứu sâu hơn nữa.

   Tác dụng gây ra mồ hôi. Trên lâm sàng ma hoàng gây ra mồ hôi rõ rệt nhưng tác dụng này chưa được chứng minh và giải thích thích đáng bằng thực nghiệm. Còn cần nghiên cứu nữa.

   Ngoài ra ma hoàng và ephedrin còn có tác dụng thông tiểu tiện, kích thích bài tiết nước giải, bài tiết dịch vị.

   Tác dụng của ephedin, lại ngược lại với tác dụng của ephedrin. Theo báo cáo của Trần Khắc Khôi (1935 Chinese M. physiol. 9: 17 - 20 thì ephedin làm hạ huyết áp, tăng sự co bóp của tử cung chuột bạch, tăng nhu động ruột của thỏ, hơi kích thích hô hấp.

   Tác dụng dược lý của rễ ma hoàng. Theo sự nghiên cứu của các tác giả Nhật Bản (Lưu Mê Đạt Phu, Mộc Thôn Hùng Tứ Lang, Hoà hán dược dụng thực vật 424, 1940), thì tác dụng dược lý của rễ ma hoàng hoàn toàn ngược lại với tác dụng của cành và thân ma hoàng nếu dùng cao lỏng rễ ma hoàng tiêm vào động vật thì thấy huyết áp giảm xuống, mạch máu ngoại vi giãn ra, hô hấp tăng nhanh.

E. CÔNG DỤNG VÀ LIỀU DÙNG

Ma hoàng được dùng trong cả đông y và tây y chủ yếu dùng chất ephedrin chiết xuất từ ma hoàng, đông y chỉ dùng toàn cảnh phơi khô.

Đông y dùng ma hoàng làm thuốc ra mồ hôi, lợi tiểu tiện, chữa ho, trừ đờm, dùng trong bệnh ho lâu năm, viêm khí quản, hen suyễn, đau khớp xương.

Tính chất của ma hoàng theo các tài liệu cổ như sau: Vị cay đắng, tính ôn; vào 4 kinh Tâm, Phế, Bàng quang và Đại trường; không độc, có khả năng khai thấu lý, ra mồ hôi, lợi tiểu tiện, làm thuốc chữa lỵ long đờm, dùng chữa trúng phong, thương hàn, nhức đầu, chữa ho, phá tích tụ, chữa chứng hay ngủ, tiêu xích ban độc, nhưng không nên uống nhiều sợ người hư hao. Phàm những người khí hư, tự ra mồ hôi (mồ hôi trộm), phổi nóng khó thở thì không dùng được.

Liều dùng hàng ngày: Ngày uống 5-10g dưới hình thức thuốc sắc, thường phối hợp với nhiều vị thuốc khác.

Tây y dùng ephedrin dưới dạng muối clohydrat hay sunfat, dùng riêng hay phối hợp với aspirin, cafein, papaverin. Liều dùng hàng ngày là 0,05 đến 0,15g để chữa hen (bắt đầu dùng liều 0,02g, tăng dần tới liều 0,12 và 0,15g). Có khi dùng ephedrin làm thuốc nhỏ mũi chữa sổ mũi (dung dịch 3% trong nước, mỗi lần nhỏ 1-2 giọt dung dịch này).

Cần chú ý là trong đông y người ta phân biệt cành và rễ. Tác dụng cành đã giới thiệu ở trên.

Theo đông y rễ ma hoàng (ma hoàng căn) và đốt ma hoàng (ma hoàng tiết) có tác dụng ngược lại, làm giảm mồ hôi, dùng trong những bệnh mồ hôi trộm, đẻ xong người yếu mồ hôi ra nhiều.

Đơn thuốc có ma hoàng dùng trong đông y:

   1. Chữa viêm khí quản, hen suyễn, cảm mạo: Ma hoàng thang (bài thuốc của Trương Trọng cảnh ma hoàng 8g, quế chi 6g, hạnh nhân 8g, cam thảo 4g, nước 600ml, sắc còn 200ml chia 3 lần uống trong ngày).

   2. Đơn thuốc khác chữa hen suyên, viêm phế quản mãn tính, lao: Ma hoàng 5g, tế tân 3g, hán hạ 2g, ngũ vị tử 1g, nước 600ml, sắc còn 200ml, chia 3 lần uống trong ngày.

Nguồn: Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tác giả: Giáo sư Tiến sĩ khoa học ĐỖ TẤT LỢI



Xin vui lòng ghi rõ nguồn http://www.dotatloi.com khi phát hành lại thông tin.


Tuyên bố miễn trừ trách nhiệm:
Thông tin trên www.dotatloi.com chỉ phục vụ nghiên cứu học tập và mở rộng kiến thức. Không sử dụng làm căn cứ để tiến hành chẩn trị trên lâm sàng. Thông tin trên www.dotatloi.com có thể được trích dẫn, thu thập từ các ấn phẩm, các trang tin điện tử liên quan trong nước và ngoài nước. Nếu phát sinh vấn đề bản quyền, kính đề nghị phản hồi cho chúng tôi.

Viết bình luận

Để thuận tiện cho việc đăng tải, xin vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.
Chúng tôi mong muốn nhận được những bình luận theo hướng mở rộng hoặc bổ sung thông tin liên quan đến bài viết.
Chúng tôi sẽ khóa những bình luận có ngôn từ mang tính kích động hoặc bất nhã.

focus Qua lâu nhân
04/03/2025 11:42 CH

- 瓜婁仁. Còn gọi là hạt thảo ca, qua lâu, quát lâu nhân. Tên khoa học Trichosanthes sp. Thuộc họ Bí (Cucurbitaceae). Qua lâu nhân, qua lâu (Semen Trichosanthis) là hạt phơi hay sấy khô của nhiều loài Trichosanthes như Trichosanthes kirilowii Maxim, Trichosant...

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu
Tên vị thuốc Mô tả
Mướp - 山鐵樹 (山铁树). Còn gọi là mướp hương, ty qua, thiên ty qua, bố ty, ty lạc. Tên khoa học Luffa cylindrica (L. ) Roem, (Momordica cylindrica L.). Thuộc họ Bầu bí (Cucurbitaceae).
Na - 番荔枝. Còn gọi là sa lê, mãng cầu, mãng cầu giai, mãng cầu ta, phan lệ chi. Tên khoa học Annona squamosa L. Thuộc họ Na (Annonaceae).Cây na cho ta các bộ phận sau đây dùng làm thuốc: Lá, hạt và quả.
Nấm hương - 香菇. Còn gọi là bioc hom, lét lang. Tên khoa học Lentinus edodes (Berk.) Sing.; Agaricus rhinonensis Berk. Thuộc họ Nấm tán Polyporaceae (Pleurotaceae).
Náng hoa trắng - 文殊蘭 (文殊兰). Còn gọi là cây lá náng, văn thù lan, hoa náng, chuối nước, thập bát học sĩ (Quảng Châu Trung Quốc). Tên khoa học Crinum asiticum L. (Crinum toxicarium Roxb.). Thuộc họ Thuỷ tiên (Amaryllidaceae).
Nàng nàng - 白毛紫珠. Còn gọi là trứng ếch, trứng ốc, bọt ếch, nổ trắng, co phá mặc lăm (Thái), pha tốp (Lai Châu), đốc pha nốc (Lào), srul kraham (Cămpuchia). Tên khoa học Callicarpa cana L. Thuộc họ Cỏ roi ngựa (Verbenaceae).
Nga truật - 蓬莪術 (蓬莪术). Còn gọi là ngải tím, tam nại, bồng truật, nghệ đen. Tên khoa học Curcuma zedoaria. Rosc. (Curcuma zerumbet Roxb.). Nga truật (Rizomza Zedoariae) là thân rễ phơi khô của cây ngải tím Curcuma zedoaria Rosc.
Ngải cứu - 艾葉 (艾叶). Còn gọi là cây thuốc cứu, cây thuốc cao, ngải diệp. Tên khoa học Artemisia vulgaris L.. Thuộc học Cúc Asteraceae (Compositae). Ta dùng lá có lẫn ít cành non - Forlium Artemisiae - phơi hay sấy khô của cây Ngải cứu. Vị thuốc còn mang tên ngải diệp (lá ngải). Ngải cứu là một vị thuốc thông dụng cả trong Đông y và Tây y.
Nghệ - 薑黃 (姜黄). Còn có tên là uất kim, khương hoàng, safran des Indes. Tên khoa học Curcuma longa L. (Curcuma domestica Lour.). Thuộc họ Gừng (Zingiberaceae). Ta dùng thân rễ cây nghệ gọi là khương hoàng (Rhizoma Curcumae longae) và rễ củ gọi là uất kim (Radix Curcumae longae).
Ngô đồng - 梧桐. Tên khoa học Sterculia platanifolia L. Thuộc họ Trôm (Sterculiaceae).
Ngô thù du - 吳茱萸. Còn gọi là thù du, ngô vu. Tên khoa học Evodia rutaecarpa (Juss) Benth. Thuộc họ Cam quít (Rutaceae). Ngô thù du (Fructus Evodiae) là quả chín phơi khô của cây thù du. Thù du ở nhièu nơi đều có, nhưng chỉ có loại thù du ở đất Ngô là tốt hơn cả, do đó có tên ngô thù du.
Ngũ bội tử - 五倍子. Còn gọi là bầu bí, măc piêt, bơ pật (Thái). Tên khoa học Galla sinensis. Ngũ bội tử (galla sinensis) là những túi đặc biệt do nhộng của con sâu ngũ bội tử Schlechtendalia sinensis Bell gây ra trên những cuống lá và cành của cây muối hay cây diêm phu mộc - Rhus semialata Murray (Rhus sinensis Mill.) thuộc họ Đào lộn hột (Anacardiaceae).
Ngũ gia bì - 五加皮. Còn gọi là xuyên gia bì, thích gia bì (ngũ gia bì gai). Tên khoa học Acanthopanax aculeatus Seem. Acanthopanax aculeatum Hook. Acanthopanax trifoliatus (L). Merr. Thuộc họ Ngũ gia bì (Araliaceae). Ngũ gia bì (Cortex Acanthopanacis), là vỏ rễ phơi khô của cây ngũ gia bì. Vì lá có 5 lá chét to chụm vào với nhau và chỉ dùng vỏ rễ làm thuốc do đó có tên như vậy. Ngoài vị trên ra, tên ngũ gia bì còn chỉ nhiều vị khác nhau. Cần chú ý tránh nhầm lẫn.
Ngưu bàng - 牛蒡子. Còn gọi là đại đao, á thực, hắc phong tử, thử niêm tử. Tên khoa học Arctium lappa L. Thuộc họ Cúc Asteraceae (Compositae). Cây ngưu bàng cho các vị thuốc sau đây: Ngưu bàng tử (Fructus Arctii-Fructus Bardanae), là quả chín phơi hay sấy khô của cây ngưu bàng. Đông y thường dùng quả, tây y thường dùng rễ với tên grande bardane. Vì cây trông xấu xí, sần sùi, sắc sạm như da trâu (ngưu là trâu bò) do đó có tên này.
Nhãn hương - 龍眼 (龙眼). Tên khoa học Melilotus suaveolens Ledeb. Thuộc họ Cánh bướm (Papilionaceae). Nhãn hương là mùi thơm của nhãn vì cây khô thoang thoảng có mùi nhãn, Melilotus do chữ Hy Lạp mel = mật, lotos = cỏ thức ăn gia súc, vì cỏ thức ăn gia súc có mùi mật.
Nhân trần Tên nhân trần lại dùng để chỉ ít nhất cũng là 3 cây khác nhau, hình dáng và họ thực vật khác hẳn nhau. Cần chú ý khi sử dụng và nghiên cứu: (1) Cây nhân trần Việt Nam (chữ Việt Nam là do chúng tôi tạm thêm để phân biệt mấy cây với nhau). Tên khoa học được một số nhà thực vật của ta xác định là Adenosma caeruleum R. Br, thuộc họ Hoa mõm chó (Scrophulariaceae). (2) Cây nhân trần bồ bồ vì một số vùng gọi là bồ bồ, một số vùng khác gọi là nhân trần. Trong những sách do chính chúng tôi viết và cho in, một số tác giả trước đây thường gọi là nhân trần. Nhưng trên thực tế điều tra lại, tên bồ bồ phổ biến hơn. Hiện nay Công ty dược liệu vẫn thu mua và cung cấp cây bồ bồ này với tên nhân trần. Tên khoa học là Adenosma capitatum Benth. thuộc họ Hoa mõm chó (Scrophulariacase). Trước đây xác định là Acrocephalus capitatus thuộc họ Hoa môi (Labiatae). Nay mới đính chính lại. (3) Cây nhân trần Trung Quốc (chữ Trung Quốc chúng tôi cũng mới thêm sau để phân biệt mấy cây với nhau). Trong các sách Trung Quốc không có thêm 2 chữ Trung Quốc vào mà lại gọi là nhân trần cao. Tên như vậy vì trên thực tế chỉ thấy giới thiệu trong các sách Trung Quốc; chưa thấy mọc ở Việt Nam, có tên khoa học là Artemisia capillaris Thunb. thuộc họ Cúc (Compositae). Hai cây trên được sử dụng phổ biến ở Việt Nam, nhưng ít được nghiên cứu hoặc nghiên cứu chưa đầy đủ, còn cây nhân trần Trung Quốc không thấy sử dụng ở ta nhưng lại được nghiên cứu tương đối kỹ.
Nhội - 秋楓木 (秋枫木). Còn gọi là thu phong, ô dương, trọng dương mộc. Tên khoa học Bischofia trifoliata (Roxb.) Hook.f. (Bischofia javanica Blume, Andrachne trifoliata Roxb.). Thuộc họ Thầu dầu (Euphorbiaceae). Cần chú ý ngay là có 2 cây mang tên nhội. Cây thứ 2 thuộc họ Cỏ roi ngựa (Verbenaceae), có tên khoa học là Citharexylon quadrangulare Jacq.
Nhục đậu khấu - 肉豆蔻. Còn gọi là nhục quả, ngọc quả, muscade, noix de muscade. Tên khoa học Myristica fragrans Houtt. Thuộc họ Nhục đậu khấu (Myristicaceae). Cây nhục đậu khấu cho ta các vị thuốc sau đây: (1) Nhục đậu khấu (Semen Myristicae) là nhân phơi hay sấy khô của cây nhục đậu khấu. (2) Ngọc quả hoa còn gọi là nhục đậu khấu y (Arillus Myristicae hay Macis) là áo của hạt nhục đậu khấu phơi hay sấy khô.
Niệt gió - 了哥王. Còn gọi là gió niệt, gió cánh, gió miết, gió chuột, liễu kha vương, lĩnh nam nguyên hoa, cửu tin thảo, sơn miên bì, địa ba ma, độc ngư đằng. Tên khoa học Wikstroemia indica C. A. Mey. (Wikstroemia viridiflora Meissn, Daphne cannabina Lour.). Thuộc họ Trầm (Thymeleaceae).
ĐỐI TÁC - LIÊN KẾT
[ Lên đầu trang ]