Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu

LỘC NHUNG, MÊ NHUNG - 鹿茸, 麋茸

Còn gọi là nhưng hươu, nhung nai.

Tên khoa học Cornu Cervi parvum.

LỘC NHUNG, MÊ NHUNG, 鹿茸, 麋茸, nhưng hươu, nhung nai, Cornu Cervi parvum

Nhung hươu nai

Lộc nhung hay mê nhung (Cornu Cervi parvum) là sừng non của con hươu (lộc) Cervus nippon Temminck, hoặc con nai (mê) Cervus unicolr Cuv. đực được chế biến mà thành.

Cả hai con đều thuộc ngành có xương sống Vertebrata, lớp có vú Mammalia, bộ có móng Artiodactyla, họ Hươu (Cervidae).

Ta vẫn thường nói sâm, nhung, quế, phụ là 4 vị thuốc bổ đứng đầu dùng trong Đông y.

Hay dùng nhất là sâm, nhung rồi đến quế và phụ tử. Phụ tử được coi là một vị thuốc "bổ dương" nhưng có độc cho nên nhiều người không dám dùng.

A. MÔ TẢ CON VẬT

Con hươu (Cervus nippon Temminck) thường cao 1m dài 0,90m-1,20m (hươi đực) hoặc chỉ cao 0,72m (hươu cái). Lông đẹp mịn màu đỏ hồng đốm trắng.

Con hươu sao, Cervus nippon, Cornu Cervi parvum, Cervus nippon Temminck, ngành có xương sống Vertebrata, lớp có vú Mammalia, bộ có móng Artiodactyla, họ Hươu, Cervidae

Con hươu sao - Cervus nippon

Con nai (Cervus unicolor) to và mạnh hơn con hươu, lông cứng hơn, màu xám hoặc nâu, không có đốm.

Con nai, Cervus unicolor

Con nai - Cervus unicolor

Cả hai đều có chân dài, nhỏ, đuôi ngắn, 2 mắt to, dưới mắt có đốm đen.

Chỉ có con đực mới có sừng. Từ hai tuổi trở đi, hươu nai đực bắt đầu có sừng, nhưng thường hươi nai từ 3 tuổi trở đi sừng hoặc nhung mới tốt và mới thu hoạch. Hằng năm vào cuối mùa hạ, sừng hươi nai cũ sẽ rụng đi, xuân năm sau sẽ lại mọc sừng khác. Sừng non khi mới mọc dài 5-10cm, rất mềm. Mặt ngoài phủ đầy lông tơ màu nâu nhạt trong chứa rất nhiều mạch máu. Vì sừng non mềm và sờ mịn như nhung do đó có tên.

Mùa nhung của hươu vào tháng 2-3, của nai vào tháng 4-8.

Thường tháng 7-8 là mùa hươu nai giao cấu. Con cái có chửa 6 tháng, vào khoảng tháng 2-3 năm sau thì đẻ. Hươi nai sống từng đàn ở núi rừng, có khi ở cả đồng bằng. Nó ăn cỏ, quả cây, nhất là non. Nơi nào cày cấy nó thường đến, ban đêm không sợ người, thường xuống ruộng ăn lúa, ngô, đỗ cho nên săn hươu nai là một hình thức bảo vệ hoa màu.

B. CẮT NHUNG VÀ CHẾ BIẾN

Thường người ta lấy nhung ở những con hươu nai sống hoang do săn bắn được (loại này được coi là quý và đắt nhất). Nhưng vì không đủ nhu cầu hoặc có khi săn bắn không được đúng lúc nhung đúng lúc nhung đúng tuổi cho nên người ta nuôi hươu nai để lấy nhung.

Tại Liên Xô cũ, người ta đã chứng minh nhung của hươu nuôi cũng tốt không kém nhung của hươu sống tự nhiên. Một số tỉnh ở miền Viễn Đông Liên Xô cũ đã tổ chức những nông trường nuôi hươu để lấy nhung. Mỗi nông trường nuôi từ  2.000 đến 8.000 con.

Ở nước ta việc nuôi hươu chưa được phổ biến: Ở Nghệ An, Hà Tĩnh (Đô Lương, Anh Sơn, Hương Sơn và Hương Khê) có nhiều nhà nuôi 2-3 con đực, một con cái, con đực hàng năm cho nhung, con cái mỗi năm đẻ một lứa. Nuôi hươu bằng lá tre, lá mót, lá chuối, dây khoai lang, cây lúa, cây ngô non v.v... Dù sao do chăn nuôi chưa đúng được với điều kiện hươu sống tự nhiên cho nên ta vẫn còn quý nhung hươu nai săn bắn được hơn. Một cặp nhung săn bắn được trị giá gấp 2-3 lần cặp nhung nuôi. Do đó, có nhiều người nuôi hươu, muốn cho cặp nhung bán có giá trị, khi hươu đã già rồi, bắn chết hươu, cắt cả đầu đem đi bán nói là hươu bắn được.

Cưa nhung:

Ở nước ta thường làm như sau:

   Vào tháng 2 tháng 3 khi cặp nhung đã đúng tuổi, người ta chọn 3-4 người mạnh khỏe, ôm cổ nắm chân hươu vật ngã hươu xuống, có khi dùng võng chụp hươu, nhưng chú ý không làm hỏng cặp nhung.

   Sau khi trói kỹ 4 chân, dùng loại cưa, cưa lấy nhung từ chỗ cách đế nhung 3cm. Máu chảy ra được hứng lấy cho vào rượu uống. Nhưng cũng chỉ nên lấy có chừng mực, để khỏi hại hươu. Muốn hãm cho máu không chảy nữa, người ta dùng mực tàu trộn với than gỗ cho đều rồi bôi vào chỗ cưa thì máu cầm ngay. Sau đó lấy miếng vài gạc hay vải thường thật sạch bọc lấy để ruồi muỗi khỏi đậu vào sinh dòi bọ.

   Thường mỗi năm chỉ lấy được một mặt nhung, đặc biệt có khi haicặp. Tại các nước khác, người ta hướng hươu đi theo một con đường vào bẫy. Hươu tụt xuống, đưa đầu sừng ra cho người ta cắt. Sau đó lại trở về chuồng rất nhẹ nhàng.

Chế nhung: Nhung cắt được cần chế biến ngay vì nhiều máu và chất thịt để lâu có thể bị thối và dòi bọ. Chế biến không cẩn thận như sấy nóng quá, nhung bị nứt ra, máu nhung tiết ra hết cũng kém giá trị.

Có nhiều cách chế nhung:

   1. Đem cặp nhung ngâm vào rượu một đêm. Khi ngâm chú ý để chỗ cắt lên trên cho chất tốt trong nhung không ra hết vào rượu. Hôm sau, rang cát cho nóng vừa, để vào một cái ống ở giữa để cặp nhung, vẫn để chỗ cắt lên phía trên. Khi cát nguội, lại đổ ra thay cát mới rang vào. Mỗi lần thay cát lại nhúng nhung vào rượu cho rượu thấm vào. Cứ làm như vậy cho đến khi khô. Cất vào hộp có nắp kín trong có gạo rang hay vôi chưa tôi để giữ cho khô ráo. Có nơi người ta thay cát bằng gạo rang. Sau khi nhung khô, người dùng ta gạo đó nấu cháu.

   2. Chỉ tẩm rượu vào nhung rồi sấy khô. Khi rồi lại tẩm rượu và sấy khô. Làm như vậy đến khi nhung khô kiệt là được. Nếu làm không cẩn thận nhung có thể bị nứt, máu chảy ra mất, kém giá trị.

   Thường công việc chế biến nhung đòi hỏi 2-3 ngày. Một cặp nhung nặng 800g, khi khô chỉ còn chừng 250g.

   Trước khi đem dùng còn cần phải bỏ hết lông đi nữa. Muốn vậy, người ta nung một cái dùi sắt hay miếng sắt cho đỏ lăn xung quanh cho cháy hết lông. Sau đây chúng tôi cũng giới thiệu sơ lược cách cắt và chế nhung được các nhà bào chế Trung Quốc áp dụng và giới thiệu trong Trung dược chí, 1961:

   Hươu 2 tuổi bắt đầu có nhung, nhưng chỉ cắt nhung khi hươu được 3 tuổi. Có loại hươu cho 2 lần nhung một năm. Lần cắt nhung thứ nhất tiến hành 45-50 ngày sau tiết thanh minh; 50-60 ngày sau khi cắt lần thứ nhất (tương ứng với trước hay sau ngày lập thu) thì cắt lần thứ hai. Khi cắt nhung thì dùng dây trói hươu treo cao khỏi mặt đất. Dùng cưa, cưa thật nhanh. Sau khi cưa đắp thuốc bột "thân lý tán" hoặc "ngọc chân tán" để cầm máu, sau đó buộc vải dầu rồi lại thả hươu về chuồng.

   Trong nhung cưa ra có nhiều máu, cho nên cần chế biến sớn cho khỏi thối. Trước hết nhặt bỏ các chất bẩn bao quanh nhung đi, sau đó lấy dây buộc chặt đầu cưa lại, để dây buộc dài ra để có thể cầm dây giữ lấy nhung được. Cho đầu nhung cắt vào nồi nước sôi 3-4 lần, mỗi lần 15-20 phút. Cho đến khi có bọt ở miệng cắt và nhung có mùi lòng đỏ trứng gà luộc chín thì thôi. Thời gian chế biến như vậy hết 2-3 giờ. Sau đó phơi hoặc sấy khô. Ngày hôm sau lại làm như vậy. Sấy ở nhiệt độ 70-80º trong vòng 2-3 giờ, rồi lấy ra. Làm như vậy 2-3 lần cho thật khô là được.

   Một số tài liệu Trung Quốc khác giới thiệu còn cầu kỳ phức tạp hơn nữa, những cách đó chúng tôi chưa hề thấy áp dụng ở Việt Nam cho nên không nêu lên ở đây.

Phẩm chất của nhung:

   Huyết nhung được coi là loại nhung quý nhất: Nhung ngắn, mềm, mọng máu, chưa phân nhánh.

   Nhung yên ngựa là loại sừng non bắt đầu phân nhánh nhưng nhánh còn ngắn, chỗ phân nhánh bên dài bên ngắn trông giống yên con ngựa. Loại này người ta cũng rất quý vì cho rằng nhung đã phát triển đầy đủ mà chưa thành sừng. Nếu đợi quá ít nữa, một phần đã thành sừng thì kém kém giá trị.

   Ngoài Việt Nam, Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên là những nước có kinh nghiệm lâu đời dùng nhung ra, một số dân tộc ở Liên Xô cũ cũng dùng nhung. Trên cơ sở kinh nghiệm sử dụng trong nhân dân, các nhà bác học Liên Xô cũ đã nghiên cứu và đã đưa nhung vào danh mục các vị thuốc được chính phủ công nhận cho sản xuất và lưu hành. Một số nông trường nuôi hươu để lấy nhung làm thuốc. Hươu nai nuôi ở đây gồm nhiều loài khác nhau.

C. THÀNH PHẦN HÓA HỌC CỦA NHUNG

Trong nhung hươu nai người ta đã phân tích được các chất canxi photphat, canxi cacbonat, chất protit, chất keo (nhưng trong thuốc rượu nhung hoặc thuốc tiêm chế từ nhung thường không có hay ít các chất này).

Nhà bác học Liên Xô cũ Pavơlencô đã lấy từ nhung các loại hươu nai ở Xibêri một chất nội tiết gọi là "lộc nhung tinh" pantocrin, rồi chế thành thuốc uống hay tiêm mang tên pantocrin.

D. TÁC DỤNG DƯỢC LÝ

Theo kết quả nghiên cứu của các nhà bác học Liên Xô cũ thì tác dụng điều trị của pan-tocrin rất cao: Nó làm tăng sức mạnh của của cơ thể, giảm sự mỏi mệt của cơ tim, làm những vết thương bên ngoài, nhất là các mụn nhọt có mủ mau lành.

Những người dùng các thuốc chế từ nhung thấy trong khoan khoái, sức làm việc được nâng cao, muốn ăn. Những người có bệnh về ruột, dạ dày dùng nhung cũng có kết quả tốt.

Trong báo Y học Liên Xô tháng 2-1954, Rêxétnicôva A. D có giới thiệu tác dụng của lộc nhung như sau:

   Lộc nhung có tác dụng tốt đối với toàn thân, nâng cao năng lượng công tác, bệnh nhân ăn ngủ tốt hơn, hiện tượng mệt mỏi giảm bớt, những vết thương chóng lành, tăng sức lợi niệu, tăng nhu động ruột và dạ dày, ảnh hưởng tốt đến chuyển hóa các chất prôtit và gluxit.

Liều lượng khác nhau của lộc nhung có tác dụng khác nhau đối với mạch mái tim: Liều dùng lớn gây hạ huyết áp, biên độ co bóp của tim tăng, tim đập nhanh; kết quả làm cho lượng huyết do tim phát ra cũng tăng lên. Hiện tượng này nhận xét trên tim đã mỏi mệt rồi lại càng rõ rệt.

E. CÔNG DỤNG VÀ LIỀU DÙNG

Theo tài liệu cổ: Lộc nhung có vị ngọt, tính ôn; lộc giác có vị mặn, tính ôn; cao ban long vị ngọt, mặn, tính hơi ôn. Cả ba vị vào 4 kinh Thận, Can, Tâm bào. Lộc nhung có tác dụng sinh tinh, bổ tủy ích huyết; lộc giác có tác dụng tán ứ, hoạt huyết, tiêu thũng; cao ban long có tác dụng ích huyết, bổ tinh, ôn bổ Can và Thận. Lộc nhung được dùng trong mọi trường hợp hư tổn trong cơ thể, nam giới hư hao, tinh kém, hoa mắt, hoạt tinh; nữ giới băng lậu, đới hạ; lộc giác dùng chữa sang thương thũng độc; cao ban long dùng chữa hư lao gầy yếu, lưng gối không có lực, mọi chứng do dương hư đưa tới thổ ra máu, máu cam, tác dụng nói chung giống nhung hươu nhưng hơi chậm hơn.

Những người âm hư mà hỏa dương mạnh thì không dùng được.

Hiện nay, lộc nhung được Nga chế thành thuốc uống và thuốc tiêm với tên gọi pantocrin dùng làm thuốc bổ, chữa mệt mỏi, làm việc quá sức, huyết áp thấp, cơ tim yếu, sau khi ốm khỏi. Pantocrin được trình bày dưới hình thức lọ 30-50ml (để uống) hoặc ống tiêm 1ml (để tiêm dưới da hay bắp thịt). Những thuốc này cần giữ ở nơi mát, và không có ánh sáng.

Liều dùng uống: Ngày 2 hay 3 lần, mỗi lần 30 đến 40 giọt, uống trước khi ăn cơm.

Liều tiêm: Ngày tiêm 1-2 ống.

Trẻ con tùy theo tuổi mà thay đổi liều lượng, thường mỗi kg thể trọng 1 giọt; mỗi ngày uống 2 lần, uống liên tiếp 15-26 ngày một liều điều trị. Thời gian điều trị: 2 đến 3 tuần lễ.

Không dùng được đối với những người cao huyết áp, đi ỉa lỏng, tim hẹp, máu có độ đông cao, viêm thận nặng. Thường sau khi uống hoặc tiêm 6-8 ngày, kết quả đã thể hiện rõ rệt. Sau khi nghỉ thuốc 1-2 tháng vẫn còn tác dụng. Có thể tán bột hay ngâm rượu mà uống. Người lớn ngày uống 2-3 lần, mỗi lần uống 0,30-1g.

Đơn thuốc có lộc nhung dùng trong nhân dân:

   1. Chữa liệt dương, tiểu tiện vặt, sắc mặt thường đen sạm: Nhung 40g cạo sạch lông, cắt thái mỏng, giã nát, hoài sơn 48g giã nát. Cả  hai vị trộn đều cho vào một túi vải; ngâm trong 1 lít rượu trong 7 ngày. Người lớn ngày uống 10-20ml rượu này. Khi hết rượu lấy bã còn lại làm thành viên mà uống.

   2. Chữa các triệu trứng tinh huyết khô kiệt tai điếc miệng khát, lưng đau, đi tiểu đục như nước gạo: Nhung 40g, đương quy 40g, cả hai vị sao khô tán bột. Lấy thịt ô mai nấu thành cao trộn với bột trên làm thành viên bằng hạt ngô. Người lớn: Ngày uống 50 viên, chia làm 2-3 lần uống với nước cơm còn âm ấm.

Chú thích:

   Hươu bao tử, lộc thai (Embryo Cervi).

   Ngoài nhung ra, người ta còn dùng cả con hươu hay nai con trong bụng của con cái đang có thai. Khi đi săn vào tháng 1-2 âm lịch, nếu bắn được hươu cái thường hay gặp hươu bao tử. Tùy theo săn được khi hươu sắp đẻ hay khi hươu mới có thai mà ta có hươu bao tử to nhỏ khác nhau.

   Hươu bao tử lấy được đem sấy khô tán bột dùng hoặc ngâm với rượu mà uống.

   Ngày uống 2-4g bột.

   Công dụng cũng như nhung hoặc như cao ban long.

Những bộ phận khác của hươu nai cũng được dùng làm thuốc:

1. Lộc giác giao:

   Xem vị cao ban long: http://dotatloi.com/nhung-cay-thuoc-va-vi-thuoc-viet-nam/ket-qua-tra-cuu/cao-ban-long.

2. Lộc giác - lộc giác sương:

   Xem vị lộc giác: http://dotatloi.com/nhung-cay-thuoc-va-vi-thuoc-viet-nam/ket-qua-tra-cuu/loc-giac.

3. Lộc thận - lộc tiên - Penis et Testis Cervi:

   Đây là dương vật và bừu dương vật của con hươu hay nai sấy khô.

   Theo đông y: Lộc thận hay lộc tiên "bổ thận tráng dương ôn trung, yên tạng".

4. Lộc cân - Ligamentum Cervi:

   Đây là gân ở 4 chân con hươu hay nai. Lấy chân hươu nai loại bỏ xương thịt, da; chỉ còn gân, và móng chân.

   Theo đông y: Lộc cân bổ gân xương, giúp cho các chỗ gẫy đứt chóng lành.

5. Lộc vĩ - Cauda Cervi:

   Lộc vĩ là đuôi con hươu, nai phơi hay sấy khô, lộc vĩ được dùng làm thuốc bổ chung chung.

6. Lộc huyết - Sanguis Cervi:

   Huyết hươu nai phơi khô chữa bệnh liệt dương ích tinh khí trừ độc của thuốc hay thức ăn.

Nguồn: Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tác giả: Giáo sư Tiến sĩ khoa học ĐỖ TẤT LỢI



Xin vui lòng ghi rõ nguồn http://www.dotatloi.com khi phát hành lại thông tin.


Tuyên bố miễn trừ trách nhiệm:
Thông tin trên www.dotatloi.com chỉ phục vụ nghiên cứu học tập và mở rộng kiến thức. Không sử dụng làm căn cứ để tiến hành chẩn trị trên lâm sàng. Thông tin trên www.dotatloi.com có thể được trích dẫn, thu thập từ các ấn phẩm, các trang tin điện tử liên quan trong nước và ngoài nước. Nếu phát sinh vấn đề bản quyền, kính đề nghị phản hồi cho chúng tôi.

Viết bình luận

Để thuận tiện cho việc đăng tải, xin vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.
Chúng tôi mong muốn nhận được những bình luận theo hướng mở rộng hoặc bổ sung thông tin liên quan đến bài viết.
Chúng tôi sẽ khóa những bình luận có ngôn từ mang tính kích động hoặc bất nhã.

Duyên đơn
03/07/2025 08:43 CH

- 鉛丹. Còn gọi là hoàng đơn, hồng đơn, duyên hoàng, đơn phấn, tùng đơn, châu đơn, châu phấn. Tên khoa học Minium.

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu
Tên vị thuốc Mô tả
Tất bạt - 蓽拔 (荜拔). Còn gọi là tiêu lốt, tiêu hoa tím, morech ton sai (Campuchia). Tên khoa học Piper longum Lin. Thuộc họ Hồ tiêu (Piperaceae).
Tật lê - 蒺藜. Còn gọi là bạch tật tê, gai ma vương, thích tật lê, gai sầu, gai trống, gai yết hầu, herbe terrestre, saligot terrestre, herse. Tên khoa học Tribulus terrestris L. (T. lanuginosus L.). Thuộc họ Tật lê (Zygophyllaceac). Bạch tật lê (Fructus Tribuli) là quả chín phơi hay sấy kho của cây tật lê. Vì quả có gai, giẫm phải thường sinh bệnh thối thịt như bị ma quỷ cho nên còn có tên gai ma vương.
Tê giác - 犀角. Còn gọi là tê ngưu giác, hương tê giác. Tên khoa học Rhinoceros unicornis L. và Rhinoceros sondaicus Desmarest. Thuộc họ Tê giác (Rhinocerotidae). Tê giác (Cornu Rihinoceri) là sừng của nhiều loại tê giác như tê giác Ấn Độ - Rihinoceros unicornis L., tê giác nhỏ một sừng - Rhinoceros sondaicus Desmarest, tê giác Inđônêxia Rhinoceros sumatrensis Cuvier, tê giác hai sừng hay hắc tê - Rhicoceros bicornis L. và tê giác hai sừng loại trắng - Rhinoceros simus Cottoni. Tại thị trường, người ta còn phân biệt ra tê giác châu Á hay tê ngưu giác - Cornu Rhinoceri asiatici và tê giác châu Phi hay Quảng giác Coronu Rhinoceri africani.
Tế tân - 細辛. Tên khoa học Asarum sieboldii Miq. Thuộc họ Mộc thông (Aristolochiaceae). Tế tân (Herba Asari sieboldi) là toàn cây phơi hay sấy khô của cây tế tân. Tế là nhỏ, tân là cay vì vị thuốc có rễ nhỏ, vị cay nên gọi là tế tân. Ngoài cây tế tây nói trên (còn gọi là hoa tế tân) người ta còn dùng một cây khác với tên liêu tế tân (còn gọi là tế sâm) là toàn cây phơi hay sấy khô của cây liêu tế tân - Asarum heterotropoides F. Schum. var. mandshuricum (Maxim.) Kitag. cùng họ.
Tề thái - 薺菜 (荠菜). Còn gọi là tề, tề thái hoa, địa mễ thái. Tên khoa học Capsella bursa pastoris (L.) Medic. Thuộc họ Chữ thập Brassicaceae (Cruciferae). Tề thái (Herba Capsellae) hoặc (Herba Bursae pastoris) là toàn cây tề thái phơi hay sấy khô.
Thạch - 凉粉. Còn gọi là quỳnh chi. Tên khoa học agar, agar-agar. Thạch (agar hay agar-agar) là một chất nhầy phơi khô chế từ một số hồng tảo như nhiều loại rau câu (gracilaria sp.) của ta hoặc từ một loại hồng tảo gọi là thạch hoa thái Gelidium amensii Lamour. thuộc họ Thạch hoa thái (Gelidiaceae) lớp hồng tảo (Rhodophyceae).
Thạch cao - 石膏. Còn gọi là đại thạch cao, bạch hổ, băng thạch. Tên khoa học Gypsum. Thạch cao (Gypsum) là một loại khoáng vật có tinh thể tụ tập thành khối.
Thạch hộc - 石斛. Còn gọi là kim thoa thạch hộc, thiết bì thạch hộc, kim thạch hộc, câu trạng thạch hộc, hắc tiết thảo, hoàng thảo. Tên khoa học Dendrobium sp. Thuộc họ Lan (Orchidaceae). Thạch hộc (Caulis Dendrobii) là thân phơi hay sấy khô của nhiều loài thạch hộc hay hoàng thảo như Dendrobium nobile Lindl., Dendrobium simplicissimum Kranzl., Dendrobium dalhousieanum Wall., Dendrobium gratiosissimum Reichb., Dendrobium crumenatum Sw., v.v... Vị thuốc trên nhỏ dưới to, giống như cái hộc, mọc ở núi đá, do đó có tên (thạch: đá; hộc: cái hộc).
Thạch quyết minh - 石決明. Còn gọi là cửa khổng, cửa khổng loa, ốc khổng, bào ngư. Tên khoa học Haliotis sp. Thuộc họ Haliotidae, lớp Phúc túc (Gastropoda), ngành Nhuyễn thể (Mollusca). Thạch quyết minh (Concha Haliotidis) là vỏ phơi khô của nhiều loài bào ngư Haliotis diversicolor Reeve (cửa khổng bào), Haliotidis gigantea discus Reeve (bào đại não) và Haliotidis ovina Gmelin (dương bào). Tên là thạch quyết minh vì là một vị thuốc giống đá (thạch) lại có tính chất làm tan màng, sáng mắt. Còn cửu khổng hay ốc khổng vì ở mép vỏ của bào ngư có một hàng lỗ nhỏ từ 7 đến 13 lỗ (thường là 9 lỗ), tức là chỗ để không khí ra vào cho con bào ngư thở.
Thạch sùng - 壁虎. Còn gọi là mối rách - thủ cung - thiên long, bích cung, hát hổ, bích hổ. Tên khoa học Hemidactylus frenatus Schlegel. Thuộc họ Tắc kè (Gekkonidae). Vì con thạch sùng hay ăn những con nhện, con muỗi đậu ở tường cho nên có tên là bích hổ (bích là tường, hổ là con hổ).
Thạch tín - 信石. Còn gọi là tín thạch, nhân ngôn, phê thạch, hồng phê, bạch phê. Tên khoa học Arsennicum. Thạch tín còn gọi chệch là nhân ngôn vì chữ tín gồm một bên chữ nhân, một bên chữ ngôn. Thường người ta dùng chữ thạch tín để chỉ chất As2O3 thiên nhiên, thường có lẫn tạp chất. Trên thị trường người ta lại còn phân biệt ra thành: (1) Hồng tín thạch hay hồng phê - Arsenicum rubrum; (2) Bạch tín thạch hay bạch phê - Arsenicum album. Thường thạch phê hiếm hơn hồng phê. Nếu tinh chế hồng phê hay bạch phê bằng cách thăng hoa chúng ta sẽ được phê sương.
Thạch vĩ - 石韋 (石韦). Còn gọi là thạch bì, thạch lan, phi đao kiếm, kim tinh thảo. Tên khoa học Pyrrhosia lingua (Thunb.) Farwell (Cyclophorus lingua Desv., Polypodium lingua Siv.). Thuộc họ Dương xỉ (Polypodiaceae).
Thần khúc - 神曲. Còn gọi là lục thần khúc, lục đình khúc, kiến thần khúc. Tên khoa học Massa medicata fermentata. Thần khúc là một vị thuốc rất phổ cập để chữa bốn mùa cảm mạo, ăn uống không tiêu v.v... Nhưng thần khúc không phải do một cây thuốc nào cung cấp mà gồm nhiều vị thuốc phối hợp với bột mì hoặc bột gạo tạo nên một môi trường đặc biệt gây mốc rồi phơi khô. Vì lúc đầu thần khúc chỉ gồm có 6 vị thuốc phối hợp với nhau, ủ cho lên mốc vào những ngày 5 tháng 5, ngày 6 tháng 6 hoặc trước ngày 20 tháng 7 (âm lịch), những ngày này theo mê tín cũ là những ngày các thần hội họp với nhau do đó thành tên (lục = sáu, thần = ông thần). Nguồn gốc thần khúc ở tỉnh Phúc Kiến (Trung Quốc) vì vậy còn có tên kiến thần khúc (thần khúc của Phúc Kiến).
Thằn lằn - 蜥蜴. Còn gọi là rắn mối. Tên khoa học Mabuya sp. Thuộc họ Thằn lằn bóng (Scincidae).
Thàn mát - 鬧魚崖豆 (闹鱼崖豆). Còn gọi là mác bát, hột mát, duốc cá, thăn mút. Tên khoa học Milletia ichthyochtona Drake. Thuộc họ Cánh bướm Fabaceae (Papilionaceae). Hạt cây thàn mát được nhân dân miền núi nước ta dùng để duốc cá (làm cho cá say thuốc mà bắt).
Thăng dược - 升藥 (升药). Còn gọi là hồng thăng, hồng phấn, hồng thăng đơn, hoàng thăng, hoàng thăng đơn, thăng dược, thăng đơn, tam tiêu đơn. Tên khoa học Hydrargyum oxydatum crudum. Thăng dược là thủy ngân oxyt đỏ hay vàng.
Thăng ma - 升麻. Trên thị trường, vị thăng ma do nhiều cây khác nhau cung cấp. Chủ yếu là những cây thuộc họ Mao lương (Ranunculaceae), nhưng vùng Quảng Đông, Quảng Tây giáp nước ta người ta dùng rễ một cây thuộc họ Cúc với tên thăng ma. Những vị thăng ma thường gặp là: (1) Thiên thăng ma - (Rhizoma Cimicifugae heracleifoliae) - là thân rễ khô của cây đại tam diệp thăng ma (Cimicifuga heracleifolia Komar.), thuộc họ Mao lương (Ranunculaceae); (2) Bắc thăng ma - (Rhizoma Cimicifugae dahuricae) - là thân rễ khô của cây bắc thăng ma hay đông bắc thăng ma - (Cimicifuga dahurica Maxim.) thuộc họ Mao lương (Ranunculaceae); (3) Tây thăng ma - Còn gọi là lục thăng ma hay xuyên thăng ma (Rhizoma Cimicifugae foetidae) - là thân rễ khô của cây thăng ma (Cimicifuga foetida L.) thuộc họ Mao lương (Ranunculaceae); (4) Quảng đông thăng ma (Radix Serratulae) - là rễ khô của thăng ma (Serratula sinensis S. Moore.) thuộc họ Cúc Asteraceae (Compositae).
Thanh cao - 青蒿. Còn gọi là thảo cao, hương cao, thanh hao. Tên khoa học Artemisia apiacea Hance. Thuộc họ Cúc Artemisia (Compositae). Thanh cao (Herba Artemisiae apiaceae) là toàn bộ phận trên mặt đất cây thanh cao phơi hay sấy khô. Tên thanh hao còn dùng để chỉ một cây nữa (xem chú thích ở dưới) cần chú ý để tránh nhầm lẫn.
ĐỐI TÁC - LIÊN KẾT
[ Lên đầu trang ]