Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu

LỘC NHUNG, MÊ NHUNG - 鹿茸, 麋茸

Còn gọi là nhưng hươu, nhung nai.

Tên khoa học Cornu Cervi parvum.

LỘC NHUNG, MÊ NHUNG, 鹿茸, 麋茸, nhưng hươu, nhung nai, Cornu Cervi parvum

Nhung hươu nai

Lộc nhung hay mê nhung (Cornu Cervi parvum) là sừng non của con hươu (lộc) Cervus nippon Temminck, hoặc con nai (mê) Cervus unicolr Cuv. đực được chế biến mà thành.

Cả hai con đều thuộc ngành có xương sống Vertebrata, lớp có vú Mammalia, bộ có móng Artiodactyla, họ Hươu (Cervidae).

Ta vẫn thường nói sâm, nhung, quế, phụ là 4 vị thuốc bổ đứng đầu dùng trong Đông y.

Hay dùng nhất là sâm, nhung rồi đến quế và phụ tử. Phụ tử được coi là một vị thuốc "bổ dương" nhưng có độc cho nên nhiều người không dám dùng.

A. MÔ TẢ CON VẬT

Con hươu (Cervus nippon Temminck) thường cao 1m dài 0,90m-1,20m (hươi đực) hoặc chỉ cao 0,72m (hươu cái). Lông đẹp mịn màu đỏ hồng đốm trắng.

Con hươu sao, Cervus nippon, Cornu Cervi parvum, Cervus nippon Temminck, ngành có xương sống Vertebrata, lớp có vú Mammalia, bộ có móng Artiodactyla, họ Hươu, Cervidae

Con hươu sao - Cervus nippon

Con nai (Cervus unicolor) to và mạnh hơn con hươu, lông cứng hơn, màu xám hoặc nâu, không có đốm.

Con nai, Cervus unicolor

Con nai - Cervus unicolor

Cả hai đều có chân dài, nhỏ, đuôi ngắn, 2 mắt to, dưới mắt có đốm đen.

Chỉ có con đực mới có sừng. Từ hai tuổi trở đi, hươu nai đực bắt đầu có sừng, nhưng thường hươi nai từ 3 tuổi trở đi sừng hoặc nhung mới tốt và mới thu hoạch. Hằng năm vào cuối mùa hạ, sừng hươi nai cũ sẽ rụng đi, xuân năm sau sẽ lại mọc sừng khác. Sừng non khi mới mọc dài 5-10cm, rất mềm. Mặt ngoài phủ đầy lông tơ màu nâu nhạt trong chứa rất nhiều mạch máu. Vì sừng non mềm và sờ mịn như nhung do đó có tên.

Mùa nhung của hươu vào tháng 2-3, của nai vào tháng 4-8.

Thường tháng 7-8 là mùa hươu nai giao cấu. Con cái có chửa 6 tháng, vào khoảng tháng 2-3 năm sau thì đẻ. Hươi nai sống từng đàn ở núi rừng, có khi ở cả đồng bằng. Nó ăn cỏ, quả cây, nhất là non. Nơi nào cày cấy nó thường đến, ban đêm không sợ người, thường xuống ruộng ăn lúa, ngô, đỗ cho nên săn hươu nai là một hình thức bảo vệ hoa màu.

B. CẮT NHUNG VÀ CHẾ BIẾN

Thường người ta lấy nhung ở những con hươu nai sống hoang do săn bắn được (loại này được coi là quý và đắt nhất). Nhưng vì không đủ nhu cầu hoặc có khi săn bắn không được đúng lúc nhung đúng lúc nhung đúng tuổi cho nên người ta nuôi hươu nai để lấy nhung.

Tại Liên Xô cũ, người ta đã chứng minh nhung của hươu nuôi cũng tốt không kém nhung của hươu sống tự nhiên. Một số tỉnh ở miền Viễn Đông Liên Xô cũ đã tổ chức những nông trường nuôi hươu để lấy nhung. Mỗi nông trường nuôi từ  2.000 đến 8.000 con.

Ở nước ta việc nuôi hươu chưa được phổ biến: Ở Nghệ An, Hà Tĩnh (Đô Lương, Anh Sơn, Hương Sơn và Hương Khê) có nhiều nhà nuôi 2-3 con đực, một con cái, con đực hàng năm cho nhung, con cái mỗi năm đẻ một lứa. Nuôi hươu bằng lá tre, lá mót, lá chuối, dây khoai lang, cây lúa, cây ngô non v.v... Dù sao do chăn nuôi chưa đúng được với điều kiện hươu sống tự nhiên cho nên ta vẫn còn quý nhung hươu nai săn bắn được hơn. Một cặp nhung săn bắn được trị giá gấp 2-3 lần cặp nhung nuôi. Do đó, có nhiều người nuôi hươu, muốn cho cặp nhung bán có giá trị, khi hươu đã già rồi, bắn chết hươu, cắt cả đầu đem đi bán nói là hươu bắn được.

Cưa nhung:

Ở nước ta thường làm như sau:

   Vào tháng 2 tháng 3 khi cặp nhung đã đúng tuổi, người ta chọn 3-4 người mạnh khỏe, ôm cổ nắm chân hươu vật ngã hươu xuống, có khi dùng võng chụp hươu, nhưng chú ý không làm hỏng cặp nhung.

   Sau khi trói kỹ 4 chân, dùng loại cưa, cưa lấy nhung từ chỗ cách đế nhung 3cm. Máu chảy ra được hứng lấy cho vào rượu uống. Nhưng cũng chỉ nên lấy có chừng mực, để khỏi hại hươu. Muốn hãm cho máu không chảy nữa, người ta dùng mực tàu trộn với than gỗ cho đều rồi bôi vào chỗ cưa thì máu cầm ngay. Sau đó lấy miếng vài gạc hay vải thường thật sạch bọc lấy để ruồi muỗi khỏi đậu vào sinh dòi bọ.

   Thường mỗi năm chỉ lấy được một mặt nhung, đặc biệt có khi haicặp. Tại các nước khác, người ta hướng hươu đi theo một con đường vào bẫy. Hươu tụt xuống, đưa đầu sừng ra cho người ta cắt. Sau đó lại trở về chuồng rất nhẹ nhàng.

Chế nhung: Nhung cắt được cần chế biến ngay vì nhiều máu và chất thịt để lâu có thể bị thối và dòi bọ. Chế biến không cẩn thận như sấy nóng quá, nhung bị nứt ra, máu nhung tiết ra hết cũng kém giá trị.

Có nhiều cách chế nhung:

   1. Đem cặp nhung ngâm vào rượu một đêm. Khi ngâm chú ý để chỗ cắt lên trên cho chất tốt trong nhung không ra hết vào rượu. Hôm sau, rang cát cho nóng vừa, để vào một cái ống ở giữa để cặp nhung, vẫn để chỗ cắt lên phía trên. Khi cát nguội, lại đổ ra thay cát mới rang vào. Mỗi lần thay cát lại nhúng nhung vào rượu cho rượu thấm vào. Cứ làm như vậy cho đến khi khô. Cất vào hộp có nắp kín trong có gạo rang hay vôi chưa tôi để giữ cho khô ráo. Có nơi người ta thay cát bằng gạo rang. Sau khi nhung khô, người dùng ta gạo đó nấu cháu.

   2. Chỉ tẩm rượu vào nhung rồi sấy khô. Khi rồi lại tẩm rượu và sấy khô. Làm như vậy đến khi nhung khô kiệt là được. Nếu làm không cẩn thận nhung có thể bị nứt, máu chảy ra mất, kém giá trị.

   Thường công việc chế biến nhung đòi hỏi 2-3 ngày. Một cặp nhung nặng 800g, khi khô chỉ còn chừng 250g.

   Trước khi đem dùng còn cần phải bỏ hết lông đi nữa. Muốn vậy, người ta nung một cái dùi sắt hay miếng sắt cho đỏ lăn xung quanh cho cháy hết lông. Sau đây chúng tôi cũng giới thiệu sơ lược cách cắt và chế nhung được các nhà bào chế Trung Quốc áp dụng và giới thiệu trong Trung dược chí, 1961:

   Hươu 2 tuổi bắt đầu có nhung, nhưng chỉ cắt nhung khi hươu được 3 tuổi. Có loại hươu cho 2 lần nhung một năm. Lần cắt nhung thứ nhất tiến hành 45-50 ngày sau tiết thanh minh; 50-60 ngày sau khi cắt lần thứ nhất (tương ứng với trước hay sau ngày lập thu) thì cắt lần thứ hai. Khi cắt nhung thì dùng dây trói hươu treo cao khỏi mặt đất. Dùng cưa, cưa thật nhanh. Sau khi cưa đắp thuốc bột "thân lý tán" hoặc "ngọc chân tán" để cầm máu, sau đó buộc vải dầu rồi lại thả hươu về chuồng.

   Trong nhung cưa ra có nhiều máu, cho nên cần chế biến sớn cho khỏi thối. Trước hết nhặt bỏ các chất bẩn bao quanh nhung đi, sau đó lấy dây buộc chặt đầu cưa lại, để dây buộc dài ra để có thể cầm dây giữ lấy nhung được. Cho đầu nhung cắt vào nồi nước sôi 3-4 lần, mỗi lần 15-20 phút. Cho đến khi có bọt ở miệng cắt và nhung có mùi lòng đỏ trứng gà luộc chín thì thôi. Thời gian chế biến như vậy hết 2-3 giờ. Sau đó phơi hoặc sấy khô. Ngày hôm sau lại làm như vậy. Sấy ở nhiệt độ 70-80º trong vòng 2-3 giờ, rồi lấy ra. Làm như vậy 2-3 lần cho thật khô là được.

   Một số tài liệu Trung Quốc khác giới thiệu còn cầu kỳ phức tạp hơn nữa, những cách đó chúng tôi chưa hề thấy áp dụng ở Việt Nam cho nên không nêu lên ở đây.

Phẩm chất của nhung:

   Huyết nhung được coi là loại nhung quý nhất: Nhung ngắn, mềm, mọng máu, chưa phân nhánh.

   Nhung yên ngựa là loại sừng non bắt đầu phân nhánh nhưng nhánh còn ngắn, chỗ phân nhánh bên dài bên ngắn trông giống yên con ngựa. Loại này người ta cũng rất quý vì cho rằng nhung đã phát triển đầy đủ mà chưa thành sừng. Nếu đợi quá ít nữa, một phần đã thành sừng thì kém kém giá trị.

   Ngoài Việt Nam, Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên là những nước có kinh nghiệm lâu đời dùng nhung ra, một số dân tộc ở Liên Xô cũ cũng dùng nhung. Trên cơ sở kinh nghiệm sử dụng trong nhân dân, các nhà bác học Liên Xô cũ đã nghiên cứu và đã đưa nhung vào danh mục các vị thuốc được chính phủ công nhận cho sản xuất và lưu hành. Một số nông trường nuôi hươu để lấy nhung làm thuốc. Hươu nai nuôi ở đây gồm nhiều loài khác nhau.

C. THÀNH PHẦN HÓA HỌC CỦA NHUNG

Trong nhung hươu nai người ta đã phân tích được các chất canxi photphat, canxi cacbonat, chất protit, chất keo (nhưng trong thuốc rượu nhung hoặc thuốc tiêm chế từ nhung thường không có hay ít các chất này).

Nhà bác học Liên Xô cũ Pavơlencô đã lấy từ nhung các loại hươu nai ở Xibêri một chất nội tiết gọi là "lộc nhung tinh" pantocrin, rồi chế thành thuốc uống hay tiêm mang tên pantocrin.

D. TÁC DỤNG DƯỢC LÝ

Theo kết quả nghiên cứu của các nhà bác học Liên Xô cũ thì tác dụng điều trị của pan-tocrin rất cao: Nó làm tăng sức mạnh của của cơ thể, giảm sự mỏi mệt của cơ tim, làm những vết thương bên ngoài, nhất là các mụn nhọt có mủ mau lành.

Những người dùng các thuốc chế từ nhung thấy trong khoan khoái, sức làm việc được nâng cao, muốn ăn. Những người có bệnh về ruột, dạ dày dùng nhung cũng có kết quả tốt.

Trong báo Y học Liên Xô tháng 2-1954, Rêxétnicôva A. D có giới thiệu tác dụng của lộc nhung như sau:

   Lộc nhung có tác dụng tốt đối với toàn thân, nâng cao năng lượng công tác, bệnh nhân ăn ngủ tốt hơn, hiện tượng mệt mỏi giảm bớt, những vết thương chóng lành, tăng sức lợi niệu, tăng nhu động ruột và dạ dày, ảnh hưởng tốt đến chuyển hóa các chất prôtit và gluxit.

Liều lượng khác nhau của lộc nhung có tác dụng khác nhau đối với mạch mái tim: Liều dùng lớn gây hạ huyết áp, biên độ co bóp của tim tăng, tim đập nhanh; kết quả làm cho lượng huyết do tim phát ra cũng tăng lên. Hiện tượng này nhận xét trên tim đã mỏi mệt rồi lại càng rõ rệt.

E. CÔNG DỤNG VÀ LIỀU DÙNG

Theo tài liệu cổ: Lộc nhung có vị ngọt, tính ôn; lộc giác có vị mặn, tính ôn; cao ban long vị ngọt, mặn, tính hơi ôn. Cả ba vị vào 4 kinh Thận, Can, Tâm bào. Lộc nhung có tác dụng sinh tinh, bổ tủy ích huyết; lộc giác có tác dụng tán ứ, hoạt huyết, tiêu thũng; cao ban long có tác dụng ích huyết, bổ tinh, ôn bổ Can và Thận. Lộc nhung được dùng trong mọi trường hợp hư tổn trong cơ thể, nam giới hư hao, tinh kém, hoa mắt, hoạt tinh; nữ giới băng lậu, đới hạ; lộc giác dùng chữa sang thương thũng độc; cao ban long dùng chữa hư lao gầy yếu, lưng gối không có lực, mọi chứng do dương hư đưa tới thổ ra máu, máu cam, tác dụng nói chung giống nhung hươu nhưng hơi chậm hơn.

Những người âm hư mà hỏa dương mạnh thì không dùng được.

Hiện nay, lộc nhung được Nga chế thành thuốc uống và thuốc tiêm với tên gọi pantocrin dùng làm thuốc bổ, chữa mệt mỏi, làm việc quá sức, huyết áp thấp, cơ tim yếu, sau khi ốm khỏi. Pantocrin được trình bày dưới hình thức lọ 30-50ml (để uống) hoặc ống tiêm 1ml (để tiêm dưới da hay bắp thịt). Những thuốc này cần giữ ở nơi mát, và không có ánh sáng.

Liều dùng uống: Ngày 2 hay 3 lần, mỗi lần 30 đến 40 giọt, uống trước khi ăn cơm.

Liều tiêm: Ngày tiêm 1-2 ống.

Trẻ con tùy theo tuổi mà thay đổi liều lượng, thường mỗi kg thể trọng 1 giọt; mỗi ngày uống 2 lần, uống liên tiếp 15-26 ngày một liều điều trị. Thời gian điều trị: 2 đến 3 tuần lễ.

Không dùng được đối với những người cao huyết áp, đi ỉa lỏng, tim hẹp, máu có độ đông cao, viêm thận nặng. Thường sau khi uống hoặc tiêm 6-8 ngày, kết quả đã thể hiện rõ rệt. Sau khi nghỉ thuốc 1-2 tháng vẫn còn tác dụng. Có thể tán bột hay ngâm rượu mà uống. Người lớn ngày uống 2-3 lần, mỗi lần uống 0,30-1g.

Đơn thuốc có lộc nhung dùng trong nhân dân:

   1. Chữa liệt dương, tiểu tiện vặt, sắc mặt thường đen sạm: Nhung 40g cạo sạch lông, cắt thái mỏng, giã nát, hoài sơn 48g giã nát. Cả  hai vị trộn đều cho vào một túi vải; ngâm trong 1 lít rượu trong 7 ngày. Người lớn ngày uống 10-20ml rượu này. Khi hết rượu lấy bã còn lại làm thành viên mà uống.

   2. Chữa các triệu trứng tinh huyết khô kiệt tai điếc miệng khát, lưng đau, đi tiểu đục như nước gạo: Nhung 40g, đương quy 40g, cả hai vị sao khô tán bột. Lấy thịt ô mai nấu thành cao trộn với bột trên làm thành viên bằng hạt ngô. Người lớn: Ngày uống 50 viên, chia làm 2-3 lần uống với nước cơm còn âm ấm.

Chú thích:

   Hươu bao tử, lộc thai (Embryo Cervi).

   Ngoài nhung ra, người ta còn dùng cả con hươu hay nai con trong bụng của con cái đang có thai. Khi đi săn vào tháng 1-2 âm lịch, nếu bắn được hươu cái thường hay gặp hươu bao tử. Tùy theo săn được khi hươu sắp đẻ hay khi hươu mới có thai mà ta có hươu bao tử to nhỏ khác nhau.

   Hươu bao tử lấy được đem sấy khô tán bột dùng hoặc ngâm với rượu mà uống.

   Ngày uống 2-4g bột.

   Công dụng cũng như nhung hoặc như cao ban long.

Những bộ phận khác của hươu nai cũng được dùng làm thuốc:

1. Lộc giác giao:

   Xem vị cao ban long: http://dotatloi.com/nhung-cay-thuoc-va-vi-thuoc-viet-nam/ket-qua-tra-cuu/cao-ban-long.

2. Lộc giác - lộc giác sương:

   Xem vị lộc giác: http://dotatloi.com/nhung-cay-thuoc-va-vi-thuoc-viet-nam/ket-qua-tra-cuu/loc-giac.

3. Lộc thận - lộc tiên - Penis et Testis Cervi:

   Đây là dương vật và bừu dương vật của con hươu hay nai sấy khô.

   Theo đông y: Lộc thận hay lộc tiên "bổ thận tráng dương ôn trung, yên tạng".

4. Lộc cân - Ligamentum Cervi:

   Đây là gân ở 4 chân con hươu hay nai. Lấy chân hươu nai loại bỏ xương thịt, da; chỉ còn gân, và móng chân.

   Theo đông y: Lộc cân bổ gân xương, giúp cho các chỗ gẫy đứt chóng lành.

5. Lộc vĩ - Cauda Cervi:

   Lộc vĩ là đuôi con hươu, nai phơi hay sấy khô, lộc vĩ được dùng làm thuốc bổ chung chung.

6. Lộc huyết - Sanguis Cervi:

   Huyết hươu nai phơi khô chữa bệnh liệt dương ích tinh khí trừ độc của thuốc hay thức ăn.

Nguồn: Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tác giả: Giáo sư Tiến sĩ khoa học ĐỖ TẤT LỢI



Xin vui lòng ghi rõ nguồn http://www.dotatloi.com khi phát hành lại thông tin.


Tuyên bố miễn trừ trách nhiệm:
Thông tin trên www.dotatloi.com chỉ phục vụ nghiên cứu học tập và mở rộng kiến thức. Không sử dụng làm căn cứ để tiến hành chẩn trị trên lâm sàng. Thông tin trên www.dotatloi.com có thể được trích dẫn, thu thập từ các ấn phẩm, các trang tin điện tử liên quan trong nước và ngoài nước. Nếu phát sinh vấn đề bản quyền, kính đề nghị phản hồi cho chúng tôi.

Viết bình luận

Để thuận tiện cho việc đăng tải, xin vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.
Chúng tôi mong muốn nhận được những bình luận theo hướng mở rộng hoặc bổ sung thông tin liên quan đến bài viết.
Chúng tôi sẽ khóa những bình luận có ngôn từ mang tính kích động hoặc bất nhã.

focus Lộc giác
15/06/2025 08:58 CH

- 鹿角. Còn gọi gạc hươi nai. Tên khoa học Cornu Cervi.

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu
Tên vị thuốc Mô tả
Bồ công anh Trung Quốc - 中國蒲公英 (蒲公英). Còn gọi là hoàng hoa địa đính, nãi chấp thảo. Tên khoa học Taraxacum officinale Wigg. Thuộc họ Cúc (Asteraceae). Ở Trung Quốc, dùng với tên bồ công anh hoặc là toàn cây cả rễ, hoặc là rễ tươi hay phơi hoặc sấy khô của nhiều loài bồ công anh như Taraxacum mongolicum Hand-Mazt., Taraxacum sinicum Kitag., Taraxacum heterolepis Nakai et H.Koidz., hoặc một số loài khác giống cùng họ.
Bồ công anh Việt Nam - 越南蒲公英 (山莴苣). Còn gọi là bồ công anh, rau bồ cóc, diếp hoang, diếp dại, mót mét, mũi mác, diếp trời, rau mũi cày. Tên khoa học Lactuca indica L.. Thuộc họ Cúc Asteraceae (Compositae).
Bồ cu vẽ - 黑面神. Còn gọi là đỏ đọt, mào gà, bồ long anh, sâu vẽ, bọ mảy. Tên khoa học Breynia fruticosa Hool. F. (Phyllanthus introductis Steud, Phyllanthus turbinatus Sima., Phyllanthus simsianus Wall.). Thuộc họ Thầu dầu (Euphorbiaceae).
Bồ hòn - 無患子 (无患子). Còn gọi là bòn hòn, vô hoạn, thụ, lai patt (dân tộc núi Bà Rá-Biên Hòa), savonniier (Pháp). Tên khoa học Sapindus mukorossiee Gaertn. Thuộc họ Bồ hòn (Sapindaceae).
Bồ kết - 皂荚. Còn gọi là tạo giáp, tạo giác, chưa nha tạo giác, man khét (Campuchia). Tên khoa học Gleditschia australis Hemsl. (Gleditschia sinensis Lamk., Mimosa fera Lour.). Thuộc họ Vang (Caesalpiniaceae). Cây bồ kết cung cấp cho ta những vị thuốc sau đây: (1) Quả bồ kết tạo giác (Fructus Gleditschiae) - là quả bồ kết chín khô; (2) Hạt bồ kết tạo giác tử (Semen Gleditschiae) - là hạt lấy ở quả bồ kết chín đã phơi hay sấy khô; (3) Gai bồ kết tạo thích, tạo giác thích, thiên đình, tạo trâm (Spina Gleditschiae) - là gai hái ở thân cây bồ kết, đem về phơi hay sấy khố hoặc thái mỏng rồi phơi hay sấy khô.
Bọ mẩy - 大青. Còn gọi là đại thanh, đắng cay, mẩy kỳ cáy, thanh thảo tâm, bọ nẹt. Tên khoa học Clerodendron cyrtophyllum Turcz. (Clerodendron amplius Hance, Clerodendron formosanum Maxim., Cordia venosa Hemsl.). Thuộc họ Cỏ roi ngựa (Verbenaceae).
Bời lời nhớt - 潺槁樹 (潺槁树). Còn gọi là mò nhớt, sàn thụ, sàn cảo thụ, bời lời. Tên khoa học Litsea glutinosa C. B. Rob. (Litsea sebifera Pers.). Thuộc họ Long não (Lauraceae).
Bối mẫu - 貝母. Người ta phân biệt ra hai loại bối mẫu: (1) Triết bối mẫu (Bulbus Fritillariae cirr - hosae) là tép dò khô của cây xuyên bối mẫu - Fritillaria royleo Hook. - hay cây bối mẫu lá quăn - Fritillaria cirrhoa D.Don - đều thuộc họ Hành tỏi (Liliaceae); (2) Xuyên bối mẫu (Bullus Fritillariae) là tép dò khô của cây xuyên bối mẫu - Fritillaria roylei Hook - hay cây bối mẫu lá quăn - Fritillaria cirrhoa D. Don - đều thuộc họ Hành tỏi (Liliaceae). Chú thích về tên - Có hai cách giải thích về tên bối mẫu: (1) Đào Hoàng Cảnh, một thầy thuốc cổ, cho rằng vì bối mẫu giống như hạt bối tử, một vị thuốc trung dược khác, tụ tập lại nên gọi bối mẫu; (2) Một thuyết khác lại cho rằng vì vị thuốc bám vào rễ chi chít như đàn con bám vào mẹ và lại quý như bảo bối cho nên gọi tên như vậy.
Bòn bọt - 毛果算盤子 (毛果算盘子). Còn gọi là toán bàn tử, chè bọt (Xuân Mai - Hà Tây). Tên khoa học Glochidion eriocarpum Chaimp. Thuộc họ Thầu dầu (Euphorbiaceae). Tên bòn bọt có thể do cây được nhân dân dùng chữa bệnh trẻ em đi ỉa có bọt. Cũng có thể do cây lắc với nước cho nhiều bọt.
Bông báo - 大花老鸦嘴. Còn gọi là bông xanh, đại hoa lão nha chủy, madia (Mèo). Tên khoa học Thunbergia grandiflora (Rottl. et Willd.) Roxb. Thuộc họ Ô rô (Acanthaceae).
Bông gạo - 木棉. Còn gọi là cây gạo, mộc miên, gòn, roca (Campuchia), ngiou (Lào), kapokier du Tonkin, kapokier du Malabar. Tên khoa học Gossampinus malabarica (D. C.) Merr. (Bombax malabaricum DC., Bombax heptaphylla Cav.). Thuộc họ Gạo (Bombacaceae).
Bỏng nổ - 白飯樹 (白饭树). Còn gọi là cây nổ, bỏng nẻ, mắc tẻn (Thổ), cáng pa (Thái). Tên khoa học Fluggea virosa (Roxb.Ex Will) Baill. (Fluggea microcarpa Blume). Thuộc họ Thầu dầu (Euphorbiaceae).
Bóng nước - 鳳仙花 (凤仙花). Còn gọi là nắc nẻ, móng tay lồi, phượng tiên hoa, cấp tính tử, boong móng tay, balsamina. Tên khoa học Impatiens balsamina L. Thuộc họ Bóng nước (Balsaminaceae).
Bông ổi - 馬纓丹 (马缨丹). Còn gọi là ngũ sắc, trâm hôi, cây hoa cứt lợn, tứ thời, tứ quý (Quảng Bình). Tên khoa học Lantana camara L. Thuộc họ Cỏ roi ngựa (Verbenaceae).
Bứa - 木竹子. Tên khoa học Garcinia oblongifolia Champ. Thuộc họ Măng cụt Clusiaceae (Guttiferae).
Bụng báng - 桄榔. Còn gọi là báng, cây đoác, palmier à sucre. Tên khoa học Arenga saccharifera Labill., (Saguerus rumphii Roxb., Borassus gomutus Lour.). Thuộc họ Cau Arecaceae (Palmae).
Bùng bục - 毛桐. Còn gọi là bục bục, bông bét, cây lá ngõa kok po hou (Lào). Tên khoa học Mallotus barbatus Muell. et Arg. Thuộc họ Thầu dầu (Euphorbiaceae).
Bưởi - 柚. Còn gọi là bòng, co phúc (Mường), kanbao tchiou (Thái), kroth thlong (Cămphuchia) makkamtel, makphuc, maksom (Lào). Tên khoa học Citrus maxima (Buru) Merrill;Citrus grandis Osbeck. Thuộc họ Cam (Rutaceae).
ĐỐI TÁC - LIÊN KẾT
[ Lên đầu trang ]