Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu

LÔ HỘI - 蘆薈 (芦荟)

Còn gọi là tượng đảm, du thông, nô hội, lưỡi hổ, hổ thiệt, long tu (Bình Định).

Tên khoa học Aloe sp.

Thuộc họ Hành tỏi (Liliaceae).

LÔ HỘI, 蘆薈, 芦荟, tượng đảm, du thông, nô hội, lưỡi hổ, hổ thiệt, long tu, Aloe sp., họ Hành tỏi, Liliaceae

Lô hội - Aloe sp

Vị thuốc lô hội (Aloe) là dịch cô đặc của lá nhiều loài cây lô hội (có khi gọi là cây hổ thiệt - lưỡi hổ - vì lá giống lưỡi hổ).

Lô hội được dùng cả trong đông y tuy nhập của Trung Quốc nhưng Trung Quốc cũng phải nhập của nước ngoài để xuất lại sang ta.

Lô là đen, hội là tụ lại, vì nhựa cây này cô đặc có sắc đen, đóng thành bánh do đó có tên.

A. MÔ TẢ CÂY

Lô hội có nhiều loài khác nhau. Ở đây chúng tôi chỉ giới thiệu một loài có ở nước ta và một số loài thông dụng.

Lô hội - Aloe vera livar. sinensis Berger [Aloe perfoliata Lour. (non L.), Aloe barbadensis Mill.var.sinensis Haw.] là một cây có thân hóa gỗ, ngắn, to thô.

Lá không cuống, mọc thành vánh rất sít nhau, dày mẫm, hình 3 cạnh, mép dầy, mép có răng cưa thô cứng và thưa dài 30-50cm, rộng 5-10cm, dày 1-2cm, ở phía cuống.

Cụm hoa dài chừng 1m, mọc thành chùm dài mang hoa màu vàng xanh lục nhạt lúc đầu mọc đứng, sau rũ xuống, dài 3-4cm. Quả nang, hình trứng thuôn, lúc đầu xanh sau nâu và dai.

Tại miền Bắc có trồng một loài lô hội trước đây được xác định là Aloe perfoliata L. chủ yếu để làm cảnh, có lá ngắn hơn chỉ đo được chừng 15-20cm; chưa thấy ra hoa kết quả.

Tại các nước khác người ta dùng nhựa nhiều cây lô hội khác như Aloe vulgaris Lamk., Aloe ferox L., Aloe perryi Bak. v.v... cho nhiều thứ lô hội chất lượng khác nhau (xem phân bố).

B. PHÂN BỐ, THU HÁI VÀ CHẾ BIẾN

Lô hội dùng ở nước ta (cả đông y và tây y) chủ yếu là nhập của nước ngoài. Mặc dù nhập qua Pháp hay Trung Quốc cũng do một số nước sau đây:

   1. Loài Aloe vulgaris lamk, ở bắc châu Phi, cực nam châu Âu, Ấn Độ, cho lô hội Ấn Độ. Tên trên thị trường quốc tế là Aloe des barbades, Aloe Curacao (Aloe des Indes.).

   2. Loài Aloe ferox L. và những loại lai của nó với các loài Aloe africans Mill., Aloe spicata Thunb., Aloe perfoliata L. cho vị lô hội với tên Aloe du Cap.

   3. Loài Aloe perryl Bak. cho vị Aloe socotrin hay succotrin. Trong đông y rất chú ý phân biệt.

Tóm lại địa lý chủ yếu của lô hội là đông châu Phi (từ nam chí bắc đều có), Ấn Độ, Châu Mỹ.

Tại nước ta, cây lô hội mọc hoang ở bờ biển những tỉnh Ninh Thuận (Phan Rang, Phan Ri) và Bình Thuận. Ở miền Bắc được trồng làm cảnh nhưng ít hơn.

Muốn chế lô hội, người ta làm theo một trong những phương pháp sau đây:

   1. Phương pháp áp dụng ở nam châu Phi (Cáp): Cắt lá xếp thành đống, cao 1m, ở miệng hố đào dưới đất, dưới có lót da dê hay da ngựa, lá xếp càng lên trên càng vươn ra để nhựa chảy vào hố. Khi nhựa đã chảy hết, thì bỏ lá đi, lấy nhựa cô đặc trong nồi đồng. Khi cô rất vất vả vì mùi và khói rất hắc khó chịu. Đun quá thì bị cháy, đun chưa đủ thì lô hội bị mềm, cho nên người ta thường tập trung vào một xưởng riêng để cô đặc.

   2. Phương pháp ở Curacao và cũng là phương pháp áp dụng ở miền nam Trung Bộ nước ta: Cắt lá, xếp thành hình chữ V vào trong hố, đầu cắt quay xuống dưới, nhựa chảy xuống tự nhiên, không cần phải ép. Cô đặc trong nồi đồng.

   3. Phương pháp khác.

   a) Cắt nhỏ lá, giã và ép. Để lắng 24 giờ. Gạn, nước thu được đêm cô ở ngoài nắng hoặc đun cho đặc. Phương pháp này cho loại lô hội không được tốt lắm vì lẫn nhiều tạp chất.

   b) Có thể ngâm lá đã giã nhỏ với nước, lọc lấy nước. Đun bã với một số nước nữa, trộn chỗ nước sau với nước trước, cô đặc lại.

   c) Có thể đem thái lá nhỏ, cho vào rổ bằng dây thép, nhúng 10 phút vào thùng nước sôi. Lại làm thế với lượt lá mới cho đến khi có một thứ nước đen đặc thì đem gạn và cô đặc.

Do phương pháp chế tạo khác nhau, cho nên lô hộ chế được cũng có hình thức khác nhau.

Trong mấy năm vừa qua, chúng tôi có thí nghiệm dùng lá cây lô hội trồng ở miền Bắc để chế lô hội. Nhưng lô hội chế được không cho các phản ứng antraglueozit (Bcrntraeger) mặc dầu trước khi nấu, thí nghiệm trên lá tươi phản ứng này rất rõ.

Trước đây theo các tài liệu cũ tại các vùng Bình Thuận, Phan rang, Phan Ri ta sản xuất hằng năm chứng 500-600kg lô hội; một phần dùng trong nước, một phần xuất sang Trung Quốc.

C. THÀNH PHẦN HÓA HỌC

Tuỳ theo nguồn gốc, lô hội có thành phần hoá học khác nhau, nhưng căn bản có những chất sau đây:

   1. Tinh dầu màu vàng, độ sôi 266o-271o, cho lô hội mùi đặc biệt; ít quan trọng về mặt tác dụng dược lý.

   2. Nhựa 12-13%: Có tác giả cho rằng nhựa này không có tác dụng tẩy, nhưng cũng có tác giả cho rằng có tác dụng tẩy.

   3. Hoạt chất chủ yếu là chất aloin. Aloin không phải là một chất thuần nhất mà là gồm những antraglucozit có tinh thể, vị đắng có tác dụng tẩy. Tỷ lệ aloin thay đổi tuỳ theo nguồn gốc lô hội.

Thông thường tỷ lệ đó là 16-20%. Perrier có định lượng aloin trong lô hội Việt Nam thì thấy tỷ lệ này lên tới 26%. Tuy nhiên cũng có tác giả không cho aloin là hoạt chất tẩy độc nhất, vì nhiều loại lô hội có cùng một lượng aloin mà lại có tác dụng tẩy khác nhau.

Bên cạnh aloin có tinh thể, còn có những chất không có tinh thể và aloeemođin tự do.

Tuỳ theo nguồn gốc lô hội, aloin mang tên khác nhau và có cấu tạo hơi khác nhau. Ví dụ trong lô hội vùng nam châu Phi (Aloe des barbades) thì aloin gọi là bacbaloin C20H20O8.

IMG

Bacbaloin thuỷ phân sẽ cho d.arabinoza và aloe.emodin-anthranol.

Ngoài ra còn có iso.baebaloin và βbaebaloin.

D. TÁC DỤNG DƯỢC LÝ

Lô hội có hai tác dụng:

   1. Liều nhỏ (0,05-0,10g) lô hội là một vị thuốc bổ, giúp sự tiêu hoá, vì nó kích thích nhẹ niêm mạc ruột và không cho cặn bã ở lâu ruột.

   2. Liều cao, nó là một vị thuốc tẩy mạnh, nhưng tác dụng chậm, gây sự sung huyết ở các cơ quan bụng, nhất là ở ruột già. Nó gây sung huyết, do đó không dùng cho người lòi dom và có thai. Tùy theo liều dùng, có thể gây độ tẩy cần thiết. Có tác dụng sau 10-15 giờ, phân mềm nhão, không lỏng. Có khi hơi đau bụng.

   3. Người ta còn cho nó có tác dụng thông mật (cholagogue). Sự có mặt của mật rất cần thiết cho tác dụng của lô hội, do đó lô hội tác dụng chậm. Muốn tác dụng mau hơn, nhiều khi người ta dùng phối hợp với mật bò.

Dùng liều quá cao (8g) có thể ngộ độc chết người (phân nhiều, yếu toàn thân, mạch chậm, nhiệt độ xuống).

E. CÔNG DỤNG VÀ LIỀU DÙNG

Lô hội là một vị thuốc được dùng cả trong đông y và tây y.

Theo tài liệu cổ: Lô hội vị đắng tinh hàn, vào 4 kinh Can, Tỳ, Vị và Đại tràng. Có tác dụng sát trùng, thông tiện, thanh nhiệt, lương can. Dùng chữa trẻ con cam tích, kinh giản, táo bón. Người tỳ vị hư nhược, sinh tả và phụ nữ có thai không dùng được. Hiện nay với liều nhỏ dùng giúp sự tiêu hoá, ăn uống không tiêu.

Với liều lớn dùng làm thuốc chữa những bệnh nhức đầu khó chữa, sung huyết phổi, sung huyết các phủ tạng.

Còn dùng làm thuốc tẩy hay nhuận tràng. Nên dùng sau bữa ăn tác dụng sẽ dịu và mau hơn.

Không dùng được cho trẻ con, phụ nữ có thai, lòi dom.

Liều dùng hàng ngày:

   - Giúp sự tiêu hoá: 0,05-0,1g.

   - Tẩy: 0,15-2g. Dưới dạng thuốc viên hay nhũ dịch.

Đơn thuốc có lô hội:

   - Viên nhuận tràng (xí nghiệp dược phẩm): Bột lô hội 0.08g, cao mật bò tinh chế 0,05g, phnotalêin 0,05g, bột cam thảo 0,05g, tá dược vừa đủ một viên. Dùng chữa táo bón, khó tiêu vì thiếu nước mật, vàng da, yếu gan, yếu ruột. Ngày uống 1-2 viên vào bữa cơm chiều. Có thể dùng liều cao hơn. Trẻ em dưới 15 tuổi không dùng được.

Chú thích:

   Theo A. Petelot, tại Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên có một loài Aloe sp. có lẽ là Aloe maculata Forsk. (tên này được ghi trong danh mục những cây của Vườn bách thảo Sài Gòn).

   Tại Huế, người ta gọi cây này là long thủ (tay rồng), tại Quảng Trị gọi là lưu hội.

   Nhân dân thường hái chừng 2-3 lá này bóc vỏ cứng ngoài, cắt thành từng miếng nhỏ ăn tươi với đường hoặc nấu với đường, hoặc ăn như rau sống để cho mát và chữa kinh nguyệt không đều.

   Chúng tôi nghĩ đây là loài ngoài Bắc ta vẫn trồng làm cảnh. Cần xác định lại.

Nguồn: Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tác giả: Giáo sư Tiến sĩ khoa học ĐỖ TẤT LỢI



Xin vui lòng ghi rõ nguồn http://www.dotatloi.com khi phát hành lại thông tin.


Tuyên bố miễn trừ trách nhiệm:
Thông tin trên www.dotatloi.com chỉ phục vụ nghiên cứu học tập và mở rộng kiến thức. Không sử dụng làm căn cứ để tiến hành chẩn trị trên lâm sàng. Thông tin trên www.dotatloi.com có thể được trích dẫn, thu thập từ các ấn phẩm, các trang tin điện tử liên quan trong nước và ngoài nước. Nếu phát sinh vấn đề bản quyền, kính đề nghị phản hồi cho chúng tôi.

Viết bình luận

Để thuận tiện cho việc đăng tải, xin vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.
Chúng tôi mong muốn nhận được những bình luận theo hướng mở rộng hoặc bổ sung thông tin liên quan đến bài viết.
Chúng tôi sẽ khóa những bình luận có ngôn từ mang tính kích động hoặc bất nhã.

focus Cây dền
03/02/2025 12:00 SA

- 木瓣樹 (木瓣树). Còn gọi là cây sai (Hà Bắc - Sơn Động), cây thối ruột, mảy sẳn săn (Thổ). Tên khoa học Xylopia vielane Pierre. Thuộc họ Na (Anonaceae).

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu
Tên vị thuốc Mô tả
Cẩu tích - 狗脊. Còn gọi là rễ lông cu ly, kim mao cẩu tích, cẩu tồn mao, cây lông khỉ. Tên khoa học Cibotium barometz (L.) J. Sm. Thuộc họ Lông cu ly (Dicksoniaceae). Cẩu tích hay kim mao, cẩu tích (Rhizoma Cibotii) là thân rễ phơi hay sấy khô, có khi thái mỏng, phơi hay sấy khô của cây lông cu ly. Cẩu là con chó, tích là lưng, xương sống. Vì vị thuốc chưa thái giống lưng con chó, do đó có tên này.
Cây áctisô - 菜薊 (菜蓟). Tên khoa học Cynara scolymus L. Thuộc họ Cúc Asteraceae (Compositae). Ta dùng thân và lá tươi của cây áctisô.
Cây ba gạc - 蘿芙木 (萝芙木). Còn có tên là la phu mộc, san to (Sapa), lạc toọc (Cao Bằng). Tên khoa học Rauwolfia verticillata (Lour) Baill. Thuộc họ Trúc đào (Apocynaceae). Người ta dùng rễ phơi hay sấy khô (Radix Rauwolfiae verticillatae) của cây ba gạc, hay la phu mộc. La phu mộc = dịch âm Trung Quốc của chữ Râuvonphia (Rauwolfia) tên khoa học của cây này. Tên san to nghĩa là ba chạc, vì cây có 3 lá, chia ba cành. Tên lạc toọc nghĩa là một rễ, vì cây có một rễ.
Cây ba gạc Ấn Độ - 印度蘿芙木 (印度萝芙木). Còn có tên Ấn Độ sà mộc, Ấn Độ la phù mộc. Tên khoa học Rauwoflia serpentina Benth. Thuộc họ Trúc đào (Apocynaceae). Người ta dùng rễ phơi hay sấy khô (Radix Rauwfliae serpentinae) của cây ba gạc Ấn Độ.
Cây ba kích - 巴戟天. Còn có tên ba kích thiên, cây Ruột gà, chẩu phóng xì (Hải Ninh), thao tầy cáy, ba kích nhục, liên châu ba kích. Tên khoa học Morinda offcinalis How. Thuộc họ Cà phê (Rubiaceae).
Cây bách bộ - 百部. Còn có tên là dây đẹt ác, dây ba mươi. Tên khoa học Stemona tuberosa Lour. Thuộc họ Bách bộ (Stemonaceae). Ta dùng rễ phơi hay sấy khô (Radix Stemonae) của cây bách bộ.
Cây bông - 棉花根. Tên khoa học Gossypium sp.. Thuộc họ bông (Malvaceae). Ta dùng vỏ rễ cây bông (Cortex Gossypii radicis) là dư phẩm của kỹ nghệ trồng bông. Sau khi hái cây bông ta đào rễ rửa sạch, bóc lấy vỏ phơi khô.
Cây cam xũng - 龍利葉 (龙利叶). Còn gọi là lưỡi cọp, đơn lưỡi cọp, đơn lưỡi hổ, lưỡi hùm. Tên khoa học Sauropus rostratus Miq. Thuộc họ Thầu dầu (Euphorbiaceae).
Cây cau - 檳榔 (槟榔). Còn gọi là binh lang, tân lang. Tên khoa học Areca catechu L. Thuộc họ cau dừa (Palmae). Họ cau dừa hiện nay có tên khoa học là Arecaceae.Người ta dùng hạt cau hay binh lang, tân lang (Semen Arecae) là hạt phơi khô của cây cau. ("Tân" = khách, "tân" = chàng. Khi có khách đem trầu cau ra mời cho nên gọi là tân lang). Có độc, dùng phải cẩn thận.
Cây câu đằng - 鉤藤 (钩藤). Tên khoa học Uncaria rhynchophylla (Miq) Jack. Thuộc họ Cà phê (Rubiaceae). Câu đằng - Rynchophylla - Ramulus et Uncus Uncariae - gai móc câu là mẩu thân có gai của cây câu đằng.
Cây chân bầu Còn có tên là cây chưng bầu, song ke (Cămpuchia). Tên khoa học Combretum quadrangulare Kurz (Combretum attenuatum Wall). Thuộc họ Bàng (Combretaceae). Người ta dùng quả và vỏ cây chân bầu.
Cây chè - 茶. Còn gọi là trà. Tên khoa học Camellia sinensis O. Ktze (Thea chinensis Seem.). Thuộc họ Chè (Theaceae). Ta dùng làm thuốc búp và lá chè non (Folium Theae), sao khô thường gọi là chè hương hay chè tàu. Còn gọi là trà diệp.
Cây chẹo Còn gọi là chẹo tía, hoàng khởi, peo, sui deng, nhân khởi, cây cơi. Tên khoa học Engelhardtia chrysolepis Hance (Engelhardtia wallichiana Lindl). Thuộc họ Hồ đào (Juglandaceae).
Cây cho curarơ Curarơ là những chế phẩm phức tạp chủ yếu chế từ một số cây thuộc chi Mã tiền (Strychnos) họ Mã tiền (Loganiaceae) như Strychnos toxifera, S. gubleri, S. curare v.v... có khi phối hợp với một số cây thuộc chi và họ khác như cây Chondodrendron tonmentosum thuộc họ Tiết dê (Menispermaceae), một số cây thuộc họ Ngũ gia bì (Araliaceae), họ Mộc hương (Aristolochiaceae) v.v...
Cây chua me lá me - 感應草 (感应草). Còn gọi là lá chua me. Tên khoa học Biophytum sensitivum (Lour.) DC. (Oxalis sensitiva Lour., Biophytum candolleanum Wight). Thuộc họ Chua me đất (Oxalidaceae).
Cây cỏ nến - 香蒲. Còn có tên bồ thảo, hương bồ thảo, bồ hoàng. Tên khoa học Typha orientalis G. A. Stuart. Thuộc họ Hương bồ (Typhaceae). Người ta dùng bồ hoàng (Pollen Typhae) là phấn hoa sấy hay phơi khô của hoa đực cây cỏ nến. Tên cỏ nến vì cụm hoa của nó giống cây nến.
Cây cơm cháy - 走馬風 (走马风). Còn gọi là cây thuốc mọi. Tên khoa học Sambucus javanica Reinw. Thuộc họ Cơm cháy (Caprifoliaceae).
Cây củ đậu - 沙葛, 地瓜. Còn gọi là củ sắng, măn phăo (Lào-Viêntian), krâsang (Cămpuchia), sắn nước (miền Nam). Tên khoa học Pachyrhizus erosus (L.) Urb. (Dolichos erosus L.), Pachyrhizus angulatus Rich. Thuộc họ Cánh bướm Fabaceae (Papilionaceae). Cây củ đậu cho ta rễ củ ăn được, nhưng lá và hạt có chất độc, cần chú ý khi sử dụng.
ĐỐI TÁC - LIÊN KẾT
[ Lên đầu trang ]