Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu

LÂN TƠ UYN

Còn gọi là dây sống rắn (Quảng Nam), cây đuổi phượng (Khu V, miền Bắc), lân tơ uyn (Kontum).

Tên khoa học Raphidophora decursiva Schott.

Thuộc họ Ráy (Araceae).

lân tơ uyn, dây sống rắn, cây đuổi phượng, lân tơ uyn, Raphidophora decursiva Schott., họ Ráy, Araceae

Lân tơ uyn - Raphidophora decursiva

A. MÔ TẢ CÂY

Cây mọc leo có thể dài 4-20m. Cành hình trụ đường kính 2,5-5cm. Rễ  khi sinh mọc thõng. Lá dai, màu xanh lục, dài 40-70cm, rộng 30-50cm, toàn phiến hình thuôn dài, ngọn lá nhọn gốc hình tim. Ngọn cuống gập khúc làm cho phiến lá mọc quặp xuống. Phiếm lá non nguyên, phiến lá già xẻ lông chim. Trên lá già còn có nhiều lỗ thủng nhỏ dọc ở 2 bên gần giữa. Cụm hoa bông mo dày, màu xanh nhạt, hình trụ ngọn tù, dài 15-20cm xung quanh bao bọc bởi 1 lá bắc to, 2 mặt màu vàng. Hoa nhiều, lưỡng tính hình lăng trụ 6 góc rộng. Quả mọng màu đỏ, nhiều hạt thuôn dài, tù ở 2 đầu, có chấm trắng nhỏ ở mép.

B. PHÂN BỐ, THU HÁI VÀ CHẾ BIẾN

Cây mọc bám trên thân cây cổ thụ mọc dọc suối nước ở vùng ẩm thấp (rừng già) hoặc dọc bờ rào (ở đồng bằng), có ở khắp nơi từ miền Bắc đến Nam. Người ta dùng thân và lá tươi làm thuốc.

Không có chế biến gì đặc biệt.

C. THÀNH PHẦN HÓA HỌC

Lá lân tơ uyn cho phản ứng của glucozit, saponozit, dịch chiết có pH axit (theo Đặng Hanh Khôi, Vũ Văn Chuyên và cộng sự 7-68).

D. TÁC DỤNG DƯỢC LÝ

Lá có tác dụng kháng sinh đối với vi trùng Staphlococcus aureus, Streptomyces pyogenes, Pseudomonas seruginosa và Bacillus subtilis.

Lê Khắc Lập (Viện Quân y giải phóng Khu V) đã theo dõi kết quả điều trị trên 357 trường hợp đã đi tới những kết luận sau đây:

    1. Chỉ định điều trị:

    a. Tất cả vết thương phần mềm có miệng rộng. Nếu vết thương chột, miệng nhỏ thì phải vạch rộng, cắt lọc tốt rồi mới dùng lân tơ uyn.

    b. Bỏng độ II, nhất là bỏng độ III.

    Phản chỉ định: Vết thương chột, lỗ nhỏ, ở trong sâu còn dị vật, không nên dùng lân tơ uyn sẽ làm cho vết thương chóng liền miệng, làm ứ đọng mủ ở trong sâu.

    2. Tác dụng của lân tơ uyn trên lâm sàng:

    a. Lân tơ uyn có tác dụng kháng sinh tại chỗ có thể thay sunfamit và penixilin điều trị tại chỗ. Những vết thương phần mềm không có triệu chứng sốt nhiễm trùng thì chỉ dùng lân tơ uyn đắp lên vết thương cũng đủ tốt.

    b. Vết thương được đắp gạc tẩm lân tơ uyn qua 2-3 lần thay băng, các tổ chức chất nhầy mủ được lấy đi nhanh chóng, nhìn mặt vết thương rất sạch và đỏ.

    c. Lân tơ uyn kích thích tổ chức hạt non ở vết thương phát triển nhanh, rút ngắn quá trình lấp đầy vết thương, kích thích da non phát triển, chóng liền sẹo và là sẹo mềm ít có thịt thừa ùn lên quá mép vết thương.

    d. Dùng lân tơ uyn tiết kiệm được 1/2 số lượng bông gạc và rút ngắn 30-45% thời gian thay băng. Khi bóc gạc hầu hết mủ nhầy và mảnh dính ở vết thương đều dính theo miếng gạc. Không gây đau đớn và chảy máu khi thay băng. Vết thương rất sạch, chỉ cần rửa qua một lượt là đủ. Qua theo dõi 357 trường hợp chưa thấy phản ứng gì xấu tại chỗ và toàn thân của thương binh được điều trị bằng lân to uyn (Y học thực hành 143-1967 tr. 25-29).

E. CÔNG DỤNG VÀ LIỀU DÙNG

Việc sử dụng lân tơ uyn mới được phổ biến rộng rãi mấy năm gần đây. Quân giải phòng miền Nam dựa vào kinh nghiệm đồng bào Kon tum khi làm nương rẫy bị dao rựa cắt đứt da thịt thường dùng lân tơ uyn đắp vào vết thương. Nhân dân miền Bắc dùng nước sắc thân cây rửa vết thương (Cứu quốc, 27-8-1967).

Cách dùng như sau: Dùng 1kg dây lân tơ uyn bỏ lá, cạo hết rễ, rửa sạch, băm  nhỏ, cho vào 3 lít nước đun sôi trong 3 giờ. Lọc qua khăn vải và cô lại còn 700ml dung dịch. Nước lân tơ uyn ở độ đậm này khi đắp vào vết thương, thương binh chỉ có cảm giác xót thoảng qua như rửa nước muối ưu trương trong lần thay băng đầu. Những ngày sau thì hết xót. Không nên dùng nước lân tơ uyn quá đặc, càng không nên dùng cao lân tơ uyn vì khi đắp lên vết thương rất xót và gây phản ứng xấu tại chỗ (xót, sưng, đỏ). Nước lân tơ uyn lên mốc, đổi màu, có vị chua.

Khi dùng như sau: Rửa vết thương bằng nước muối (nếu có nhiều lân tơ uyn thì dùng nước lân tơ uyn rửa càng tốt). Dùng miếng gạc tẩm nước lân tơ uyn đắp lên vết thương xong băng lại và cách 2-3 ngày lại thay băng một  lần, tùy mức độ mủ nhầy ở vết thương.

Nguồn: Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tác giả: Giáo sư Tiến sĩ khoa học ĐỖ TẤT LỢI



Xin vui lòng ghi rõ nguồn http://www.dotatloi.com khi phát hành lại thông tin.


Tuyên bố miễn trừ trách nhiệm:
Thông tin trên www.dotatloi.com chỉ phục vụ nghiên cứu học tập và mở rộng kiến thức. Không sử dụng làm căn cứ để tiến hành chẩn trị trên lâm sàng. Thông tin trên www.dotatloi.com có thể được trích dẫn, thu thập từ các ấn phẩm, các trang tin điện tử liên quan trong nước và ngoài nước. Nếu phát sinh vấn đề bản quyền, kính đề nghị phản hồi cho chúng tôi.

Viết bình luận

Để thuận tiện cho việc đăng tải, xin vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.
Chúng tôi mong muốn nhận được những bình luận theo hướng mở rộng hoặc bổ sung thông tin liên quan đến bài viết.
Chúng tôi sẽ khóa những bình luận có ngôn từ mang tính kích động hoặc bất nhã.

focus Chìa vôi
27/01/2025 09:14 CH

- 白粉藤. Còn gọi là bạch liễm, đau xương, bạch phấn đằng. Tên khoa học Cissus modeccoides Planch. [Cissus vitiginea Lour. (non L.) C. triloba merr., Callicarpa triloba Lour.]. Thuộc họ Nho (Ampelidaceae).

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu
Tên vị thuốc Mô tả
Sòi - 烏桕 (乌桕). Còn gọi là ô cửu, ô thụ quả, ô du, thác tử thụ, mộc tử thụ, cửu tử thụ. Tên khoa học Sapium sebiferum (L.), Roxb. (Croton sebiferum L. Stillingia sebifera Michx.). Thuộc họ Thầu dầu (Euphorbiaceae). Cây sòi cho các vị thuốc sau đây: 1. Vỏ rễ - ô cửu căn bì (Radix Sapii) là vỏ rễ phơi hay sấy khô của cây sòi. Có khi người ta dùng cả vỏ thân, nhưng hay dùng vỏ rễ hơn. 2. Dầu hạt sòi - cửu chi hay ô cửu chi hay bì du (Oleum Sapii) là hỗn hợp chất sáp bọc lớp ngoài của hạt và dầu ép từ hạt sòi. Tên gọi là ô cửu vì quạ (ô) thích ăn hạt cây này.
Sơn tra - 山楂. Còn gọi là bắc sơn tra, nam sơn tra, dã sơn tra, aubepine. Tên khoa học Crataegus pinnatifida Bunge (bắc sơn tra, sơn tra); Crataegus cuneata Sieb.et Zucc. (nam sơn tra, dã sơn tra). Thuộc họ Hoa hồng (Rosaceae). Sơn tra (Fructus Crataegi) là quả chín thái mỏng phơi hay sấy khô của cây bắc hay nam sơn tra.
Sử quân tử Còn gọi là cây quả giun, quả nấc, sứ quân tử. Tên khoa học Quisqualis indica L. Thuộc họ Bàng (Combretaceae). Ta dùng quả chín (Fructus Quisqualis) hay nhân chín (Semen Quisqualis) phơi hay sấy khô của cây sử quân tử. Tên đúng là sứ quân tử (hạt của ông sứ quân) vì trước đây có một vị sứ quân (người đứng đầu một vùng ngày xưa) chuyên dùng hạt này chữa bệnh cho trẻ em. Về sau đọc chệch thành sử quân.
Tai chua - 大果藤黄. Tên khoa học Garcinia pedunculata Roxb. (G. cowa Roxb.). Thuộc họ Bứa Clusiaceae (Guttiferae). Về tên khoa học của tai chua, một số người đã căn cứ vào tài liệu đầu tiên của Ch. Grevost và A. Petelot đã xác định là một loài thuộc chi Dillenia. Nhưng ngay trong những phần phụ lục của tác giả trong tập Sản phẩm Đông Dương I đã đính chính lại tên, và tập VI (1941) các tác giả đã nhắc lại và khẳng định là loài Garcinia pedunculata Roxb.
Tai chuột - 眼樹蓮 (眼树莲). Còn gọi là cây hạt bí, qua tử kim. Tên khoa học Dischidia acuminata Cost. Thuộc họ Thiên lý (Asclepiadaceae).
Tầm duột Còn gọi là chùm ruột, chùm giuột, tầm ruộc, mak nhôm (Viêntian). Tên khoa học Phyllanthus disichus Muell, Arg. (Phyllanthus acidus Skeels, Cicca disticha L.). Thuộc họ Thầu dầu (Euphorbiaceae).
Tần cửu (Thanh táo) - 駁骨丹 (驳骨丹). Còn gọi là tần cừu, tần qua, tần giao, thanh táo, thuốc trặc, trường sơn cây. Tên khoa học Justicia gendarussa L. (Gendarussa vulgaris Nees.). Thuộc họ Ô rô (Acanthaceae).
Táo rừng Còn gọi là mận rừng, bút mèo, vang trầm. Tên khoa học Rhamnus crenatus Sieb và Zucc. var. cambodianus Tard. Thuộc họ Táo ta (Rhamnaceae).
Thạch - 凉粉. Còn gọi là quỳnh chi. Tên khoa học agar, agar-agar. Thạch (agar hay agar-agar) là một chất nhầy phơi khô chế từ một số hồng tảo như nhiều loại rau câu (gracilaria sp.) của ta hoặc từ một loại hồng tảo gọi là thạch hoa thái Gelidium amensii Lamour. thuộc họ Thạch hoa thái (Gelidiaceae) lớp hồng tảo (Rhodophyceae).
Thạch quyết minh - 石決明. Còn gọi là cửa khổng, cửa khổng loa, ốc khổng, bào ngư. Tên khoa học Haliotis sp. Thuộc họ Haliotidae, lớp Phúc túc (Gastropoda), ngành Nhuyễn thể (Mollusca). Thạch quyết minh (Concha Haliotidis) là vỏ phơi khô của nhiều loài bào ngư Haliotis diversicolor Reeve (cửa khổng bào), Haliotidis gigantea discus Reeve (bào đại não) và Haliotidis ovina Gmelin (dương bào). Tên là thạch quyết minh vì là một vị thuốc giống đá (thạch) lại có tính chất làm tan màng, sáng mắt. Còn cửu khổng hay ốc khổng vì ở mép vỏ của bào ngư có một hàng lỗ nhỏ từ 7 đến 13 lỗ (thường là 9 lỗ), tức là chỗ để không khí ra vào cho con bào ngư thở.
Thạch vĩ - 石韋 (石韦). Còn gọi là thạch bì, thạch lan, phi đao kiếm, kim tinh thảo. Tên khoa học Pyrrhosia lingua (Thunb.) Farwell (Cyclophorus lingua Desv., Polypodium lingua Siv.). Thuộc họ Dương xỉ (Polypodiaceae).
Thần khúc - 神曲. Còn gọi là lục thần khúc, lục đình khúc, kiến thần khúc. Tên khoa học Massa medicata fermentata. Thần khúc là một vị thuốc rất phổ cập để chữa bốn mùa cảm mạo, ăn uống không tiêu v.v... Nhưng thần khúc không phải do một cây thuốc nào cung cấp mà gồm nhiều vị thuốc phối hợp với bột mì hoặc bột gạo tạo nên một môi trường đặc biệt gây mốc rồi phơi khô. Vì lúc đầu thần khúc chỉ gồm có 6 vị thuốc phối hợp với nhau, ủ cho lên mốc vào những ngày 5 tháng 5, ngày 6 tháng 6 hoặc trước ngày 20 tháng 7 (âm lịch), những ngày này theo mê tín cũ là những ngày các thần hội họp với nhau do đó thành tên (lục = sáu, thần = ông thần). Nguồn gốc thần khúc ở tỉnh Phúc Kiến (Trung Quốc) vì vậy còn có tên kiến thần khúc (thần khúc của Phúc Kiến).
Thàn mát - 鬧魚崖豆 (闹鱼崖豆). Còn gọi là mác bát, hột mát, duốc cá, thăn mút. Tên khoa học Milletia ichthyochtona Drake. Thuộc họ Cánh bướm Fabaceae (Papilionaceae). Hạt cây thàn mát được nhân dân miền núi nước ta dùng để duốc cá (làm cho cá say thuốc mà bắt).
Thanh đại - 青黛. Thanh đại (Indigo pulverata levis) là màu xanh chế từ nhiều cây khác nhau, chủ yếu là các cây sau đây: 1. Cây chàm (Indigofera tinctoria L.) thuộc họ Cánh bướm (Fabaceae); Nghể chàm (Polygonum tinctorium Lour) thuộc họ Rau răm (Polygonaceae); Cây chàm Strobilanthes cusia Bremek (hay strobilanthes flaccidifolius Ness), còn gọi là cây chàm mèo thuộc họ Ô rô (Acanthaceae); 4. Một số cây khác chưa thấy ở nước ta, như cây Isatis tinctoria L., họ Chữ thập (Brassicaceae) và cây Isatis indigotica Fort, cũng thuộc họ Chữ thập (Brassicaceae).
Thanh long - 量天尺. Còn gọi là cây mắt rồng, oeil de dragon (Pháp). Tên khoa học Hylocereus undulatus (Haw.) Britt & Rose. Thuộc họ xương rồng (Cactaceae).
Thanh ngâm - 苦玄參 (苦玄参). Còn gọi là mật đất, cây mật cá, sản đắng, thằm ngăm đất. Tên khoa học Curanga amara Juss. Thuộc họ Hoa mõm chó (Scrophulariaeae).
Thành ngạnh - 黄牛木. Còn gọi là cây đỏ ngọn (Vĩnh Phú), lành ngạnh, ngành ngạnh, may tiên, ti u (Lai Châu). Tên khoa học Cratoxylon prunifolium Dyer (Cratoxylon pruniflorum Kurtz). Thuộc họ Ban (Hypericaceae).
Thảo đậu khấu - 草豆蔻. Còn gọi là thảo khấu nhân, ngẫu tử. Tên khoa học Alpnia katsumadai Hayt. Thuộc họ Gừng (Zingiberaceae). Thảo đậu khấu (Semen Alpiniae katsumadai) là hạt phơi hay sấy khô lấy từ quả gần chín của cây thảo khấu (Alpinia katsumadai).
ĐỐI TÁC - LIÊN KẾT
[ Lên đầu trang ]