Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu

KIM ANH - 金樱子

Còn gọi là thích lê tử, đường quân tử.

Tên khoa học Rosa laevigata Michsx.

Thuộc họ Hoa hồng (Rosaceae).

KIM ANH, 金樱子, thích lê tử, đường quân tử, Rosa laevigata Michsx, họ Hoa hồng, Rosaceae

Kim anh - Rosa laevigata

Kim anh tử (Fructus Rosae laevigatae) là quả giả hay đế hoa chín phơi hay sấy khô hoặc loại bỏ hết quả thực (ta vẫn gọi nhầm là hạt) rồi mới phơi hay sấy khô của cây kim anh (Rosa laevigata).

Kim là vàng, anh là cái chén, vĩ quả giả giống cái chén, có màu vàng do đó có tên gọi như vậy.

A. MÔ TẢ CÂY

Cây kim anh là một loại cây mềm, mọc thành bụi, xen lẫn với những cây khác như sim, tre v.v...

Cây có thể mọc dài tới 10m. Thân cây có đường kính tới 2cm, thân và cành đều có gai mọc cúp xuống phía gốc như cây hoa hồng. Mỗi mẩu thân thường có 1-2 cành vươn ra rất dài, có thể tới 2-3m.

Lá có lá kèm và gồm 3 lá chét. Lá chét hình trứng, 2 đầu nhọn, mép có răng cưa, lá chét giữa dài và rộng hơn. Đừng nhầm với cây tầm xuân có số lá chét nhiều hơn (5-7).

Hoa màu trắng, đơn độc, mọc ở đầu cành, khi nở có đường kính rộng tới 5-8cm; nhị màu vàng. Đế hoa lớn, hình chén có gai nhỏ, nhọn, cuống hoa dài 1,5-3cm. Lá đài 5, tràng cũng có 5 cánh, nở vào cuối xuân sang hạ (các tháng 2, 3), quả chín vào các tháng 8, 9, 10.

Quả giả (thực ra đó là đế hoa) tươi có màu vàng đỏ bóng, cứng hình cái chén, dài 1,5-2cm có cuống dài 2-3cm; phía trên còn sót lại 3-5 lá đài bao vây nhị và vòi hơi nổi phồng lên ngoài mặt có nhiều gai. Khi khô có màu nâu đỏ sẫm hay nhạt; sau khi chế biến, trên mặt có những vết sẹo của gai đã rụng đi.

Trong "quả" có rất nhiều lông và "hạt" (thực ra đây mới là quả) hình thon, dẹt, dài 6-7mm, màu vàng nâu nhạt có góc rất cứng. Có hạt có cuống, có hạt không có cuống.

B. PHÂN BỐ, THU HÁI VÀ CHẾ BIẾN

Mọc hoang trên các đồi ở nước ta, chủ yếu ở một số tỉnh miền núi biên giới như Cao Bằng, Lạng Sơn, tại đây một số người trồng làm hàng rào vì cây có nhiều gai. Còn thấy ở Trung Quốc (Quảng Đông, Quảng Tây, Phúc Kiến, Hà Nam, Giang Tô, Triết Giang, Hồ Nam, Hồ Bắc, Tứ Xuyên).

Trồng bằng cách dâm cành hay đào các cây con có sắn trên đồi về. Hiện nay chưa thấy ai trồng thử bằng hạt.

Đến mùa thu hái, người ta buộc giẻ vào đầu ngón tay, có thể đeo găng mà hái để tránh gai đâm vào tay. Áo cũng phải dài tay, chân đi giầy để tránh gai. Thường đây là công việc của trẻ chăn trâu, phụ nữ, người già. Mỗi ngày một người có thể hái được chừng 5-10kg.

Hái về, sau khi phơi khô, cho vào thùng, dùng gậy đảo cho hết gai rồi phơi khô lại lần nữa, gọi là kim anh tử; nếu sau khi loại hết gai đem bổ học, loại bỏ hết hạt (thực tế đây là quả thực) rồi phơi khô thì gọi là kim anh nhục hay kim anh phiến.

Ngoài quả giả ra, người ta còn dùng rễ và vỏ rễ, hoa lá kim anh làm thuốc, nhưng hay dùng nhất vẫn là quả giả.

C. THÀNH PHẦN HÓA HỌC

Trong cùi quả giả kim anh có axit xitric axit malic, nhiều tanin và titamin C, ngoài ra còn đường glucoza, nhựa.

Kim anh tử là một nguồn vitamin C, khá lớn, tỉ lệ hơn 1%. Định lương vitamin C trong quả giả kim anh ở Lạng Sơn, chúng tôi thấy 1.360mg trong 100g (Đỗ Tất Lợi và Nguyễn Xuân Thu, 1957).

Trong quả (ta gọi nhầm là hạt) có chất glucozit độc, do đó khi dùng ta vẫn phải bỏ hạt đi.

Năm 1958, hệ dược thuộc Viện y học Bắc Kinh có định lượng thấy trong kim anh có tới 17,12% saponozit (Theo Trung dược chí Bắc Kinh, 1959).

D. TÁC DỤNG DƯỢC LÝ

Leclerc (1939) nghiên cứu độc tính của cồn chế từ toàn quả giả (Rosa canina L.) (cả quả giả và quả thực) thì thấy rằng với liều 60-70 giọt có thể gây đờ đẫn, với khuynh hướng chóng mặt và giảm hoạt động của thần kinh cơ.

Năm 1934 A. Garello-Cantoni nhận xét thấy nước sắc 5% cũng có độc tính; tiêm 1ml dưới da một con ếch, rồi một con chuột thì thấy con vật chết sau 3 giờ; sau một thời kỳ kích thích ngắn, xuất hiện hiện tượng đời đẫn, giật rung, run, liệt toàn thân và chết tim ngừng ở thể tâm trương. Nếu liều nhỏ hơn, các triệu chứng yếu hơn và sau 8 giờ con vật trở lại bình thường. Tóm lại chất glucozit có tác dụng trên tủy, hệ thống thần kinh và tim.

E. CÔNG DỤNG VÀ LIỀU DÙNG

Kim anh được dùng cả trong đông y và tây y. 

Tây y coi kim anh là một nguồn vitamin C quan trọng. Thường chế thành mứt có vị vừa ngọt, vừa chát và vừa chua, dùng làm thuốc bổ, thuốc cầm máu. Thuốc pha hay cồn thuốc chế bằng toàn bộ quả (cả cùi và hạt) được dùng chữa bệnh về thần kinh với những triệu chứng như lo âu, thần kinh bất định, trằn trọc thâu đêm. Liều dùng từ 15 đến 30 giọt một ngày; không nên dùng quá liều 40 đến 50 giọt một ngày. Sau một thời gian dùng, nên nghỉ để tránh ngộ độc.

Quả giả kim anh còn dùng dưới dạng xirô (1ml có 5mg vitamin C), bột (1g bột có 30mg vitamin C).


Đông y coi kim anh có vị chua, chát, tính bình; vào 3 kinh Tỳ, Phế và Thận; có tác dụng kiện tính, mạch ruột. Dùng chữa di tinh, đái són, tiểu tiện nhiều lần, phụ nữ khí hư, bạch đới, tỳ hư mà hay đi ỉa lỏng. Dùng dưới hình thức bột hay cao mềm. Ngày dùng 6 đến 12g.

Ngoài ra người ta còn dùng lá kim anh giã nhỏ, thêm ít muối mà đắp lên mụn nhọt; có khi phối hợp với lá dâu tằm cùng giã với muối mà đắp lên vết thương để cầm máu.

Đơn thuốc có kim anh dùng trong đông y:

   - Thuốc viên thủy lục nhị tiên đơn - chữa di mộng tinh, phụ nữ khí hư, bạch đới: Quả giả kim anh, khiếm thực, hai vị bằng nhau, tán nhỏ làm thành viên bằng hạt ngô. Ngày uống 10-20 viên.

   Lục là đất, thủy là nước vì bài thuốc gồm  một vị mọc trên đất (kim anh) và một vị mọc dưới nước (khiếm thực).

   - Thuốc viên chữa lỵ lâu ngày: Hoa kim anh, quả kim anh (bỏ hạt), lá kim anh và anh túc xác, tất cả bằng nhau, tán nhỏ viên thành viên bằng hạt ngô; ngày dùng 7 viên, dùng nước sắc vỏ quít mà chiêu thuốc.

Chú thích:

   Tại các nước, người ta dùng quả giả của một số cây khác cùng chi, ví dụ như Roasa canina L., Rosa cinnamomea L., Rosa acicularis Lindb. v.v... đều cùng  một họ.

   Ở Việt Nam mới chỉ thấy dùng có cây kim anh, ta có thể nghiên cứu dùng quả của một vị cây khác như cây tầm xuân, cây hoa hồng v.v...

Nguồn: Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tác giả: Giáo sư Tiến sĩ khoa học ĐỖ TẤT LỢI



Xin vui lòng ghi rõ nguồn http://www.dotatloi.com khi phát hành lại thông tin.


Tuyên bố miễn trừ trách nhiệm:
Thông tin trên www.dotatloi.com chỉ phục vụ nghiên cứu học tập và mở rộng kiến thức. Không sử dụng làm căn cứ để tiến hành chẩn trị trên lâm sàng. Thông tin trên www.dotatloi.com có thể được trích dẫn, thu thập từ các ấn phẩm, các trang tin điện tử liên quan trong nước và ngoài nước. Nếu phát sinh vấn đề bản quyền, kính đề nghị phản hồi cho chúng tôi.

Viết bình luận

Để thuận tiện cho việc đăng tải, xin vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.
Chúng tôi mong muốn nhận được những bình luận theo hướng mở rộng hoặc bổ sung thông tin liên quan đến bài viết.
Chúng tôi sẽ khóa những bình luận có ngôn từ mang tính kích động hoặc bất nhã.

focus Ô đầu - Phụ tử
01/06/2025 09:20 CH

- 烏頭 - 附子 (乌头 - 附子). Trong đông y thường coi phụ tử là một vị thuốc bổ "dương" do đó có câu (sâm, nhung, quế, phụ) nhưng có nhiều người lại rất sợ phụ tử vì coi đó là một vị thuốc rất độc. Vậy sự thật như thế nào? Ô đầu và phụ tử là hai vị thuốc khác nhau h...

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu
Tên vị thuốc Mô tả
Bướm bạc - 玉葉金花 (玉叶金花 ). Còn gọi là bướm bướm, hoa bướm, bứa chừa (Thái). Tên khoa học Mussaenda pubescens Ait. f. Thuộc họ Cà phê (Rubiaceae).
Cà chua - 番茄. Còn gọi là cà dầm, tomate (Pháp). Tên khoa học Lycopersicum esculentum Mill. Thuộc họ Cà (Solanaceae).
Cà dái dê tím - 茄子. Tên khoa học Solanum melongena L. Thuộc họ Cà (Solanaceae).
Cà dại hoa tím - 刺天茄. Còn gọi là cà hoang, cà gai, cà hoang gai hoa tím. Tên khoa học Solanum indicum L. Thuộc họ Cà (Solanaceae).
Cà dại hoa trắng - 水茄. Còn gọi là cà pháo, trăng lao (Buôn ma thuột). Tên khoa học Solanum torvum Swartz. Thuộc họ Cà (Solanaceae).
Cà dại hoa vàng - 薊罌粟 (蓟罂粟). Còn có tên là cà gai, cây gai cua, cây mùi cua, lão thử lực. Tên khoa học Argemone mexicana L.. Thuộc họ Thuốc phiện (Papaveraceae).
Cà gai leo - 細顛茄 (细颠茄). Còn gọi là cà quính, cà quánh, trap khar (Campuchia), Blou xít (Lào). Tên khoa học Solanum proucumbens Lour. (Solanum hainanense Hance). Thuộc họ Cà (Solanaceae).
Cà rốt - 胡蘿蔔 (胡萝卜). Còn gọi là hồ la bặc (Trung Quốc). Tên khoa học Daucus carota L. Thuộc họ Hoa tán (Umbelliferae).
Cà tàu - 黄果茄. Còn gọi là cà dại trái vàng. Tên khoa học Solanum xanthocarpum Schrad và Wondl. Thuộc họ Cà (Solanaceae).
Các loại sâm Đông y coi sâm là vị thuốc đứng đầu các vị thuốc bổ, theo thứ tự sâm, nhung, quế, phụ. Sâm nói ở đây là vị nhân sâm.
Cải bắp - 卷心菜. Tên khoa học Brassia oleracea Linn. var capitata D. C. Thuộc họ cải (Brassicaceae).
Cải canh - 芥菜. Còn có tên là cải dưa, cây rau cải, giới tử. Tên khoa học Brassica juncea (l.) Czermet Coss. (Sinapis juncea L.). Thuộc họ Cải (Brassicaceae). Giới tử Sinapis - Semen Sinapis hay Semen Brassicae junceae là hạt phơi hay sấy khô lấy ở quả chín của cây cải canh.
Cải cúc - 茼蒿. Còn gọi là rau cúc, cúc tần ô, đồng hao (T.Q.), chrysanthème des jardins, chrysan thème à couronne. Tên khoa học Chrysanthemum coronarium L. Thuộc họ Cúc Asteraceae (Compositae).
Cải xoong - 豆瓣菜. Còn gọi là đậu ban thái, thủy điều thái, tây dương thái. Tên khoa học Nasturtium offcinale R. Br. (Roripa nasturtium aquaticum Hayek). Thuộc họ Cải (Cruciferae). Đây là một cây vốn không mọc tự nhiên ở nước ta, hiện được trồng ở khắp nơi. Tên cải xoong do tên chữ Pháp Cresson phiên âm ra. Cải xoong vừa là thức ăn, vừa cho ta thân và lá để làm thuốc.
Cam thảo - 甘草. Cam thảo là một vị thuốc rất thông dụng trong đông y và tây y. Tuy nhiên ở nước ta, tên cam thảo dùng để chỉ 3 vị thuốc khác nhau. Cần chú ý để tránh nhầm lẫn: (1) Cam thảo bắc - 甘草; (2) Cam thảo dây - 相思藤; (3) Cam thảo nam - 野甘草.
Cam thảo bắc - 甘草. Còn có tên là bắc cam thảo, cam thảo, sinh cam thảo, quốc lão. Tên khoa học Clycyrrhiza uralensis Fish và Glycyrrhiza glabra L. (G. glandulifera Waldst et Kit). Thuộc họ Cánh bướm Fabaceae (Papilionaceae). Cam thảo (Radix Glycyrrhizae) là rễ và thân rễ phơi hay sấy khô của cây cam thảo nguồn vùng Uran (Glycyrrhiza uralensis) hay cây cam thảo châu Âu Glycyrrhiza glabra L. Tên cam thảo vì cam là ngọt, thảo là cỏ; cỏ có vị ngọt. Glycyrrhiza vì do chữ Hy lạp glykos là ngọt và riza là rễ, rễ có vị ngọt, uralensis vì sản xuất ở vùng núi Uran, dãy núi nằm giữa châu Á, châu Âu.
Cam thảo dây - 相思藤. Còn gọi là tương tư tử, tương tự đậu, tương tư đằng, dây cườm, dây chi chi, ang krang, angkreng (Cămpuchia). Tên khoa học Abrus precatorius L. (Abrus minor et pauciflorus., Glycine abrus L.). Thuộc họ Cánh bướm Fabaceae (Papilionaceae). Dây cam thảo cho những bộ phận dùng làm thuốc sau đây: (1) Rễ và lá dùng thay cam thảo bắc ở nhiều nước, do đó còn có tên liane rélisse (dây cam thảo), réglisse d'Amérique (cam thảo châu Mỹ), réglisse indienne (cam thảo Ấn Độ). (2) Hạt là tương tư tử - Semen Abri (Semen Jequiriti).
Cam thảo nam - 野甘草. Còn có tên là dã cam thảo (Trung Quốc), thổ cam thảo (Trung Quốc), giả cam thảo. Tên khoa học Seoparia dulcis L. Thuộc họ Hoa mõm chó (Scrophulariaceae). Cam thảo nam (Herbra Sceopariae) là toàn cây tươi hoặc phơi khô sấy khô của cây cam thảo nam.
ĐỐI TÁC - LIÊN KẾT
[ Lên đầu trang ]