Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu

HUBLÔNG - 啤酒花

Còn gọi là houblon, hương bia, hoa bia.

Tên khoa học Humulus lupulus L.

Thuộc họ Gai mèo (Cannabinaceae).

HUBLÔNG, 啤酒花, houblon, hương bia, hoa bia, Humulus lupulus L., họ Gai mèo, Cannabinaceae

Hublông - Humulus lupulus

A. MÔ TẢ CÂY

Đây là một loại dây mọc leo, sống dai, khác gốc, thân mọc cuốn, có lông cứng.

Lá mọc đối, có cuống, gốc hình tim, có 3-5 thùy chân vịt, mép có răng cưa.

Hoa màu lục nhạt. Hoa đực tập hợp thành chùy thưa, mọc ở kẽ lá; hoa cái họp thành nón, nhiều nón họp thành chùm ở đầu cành. Mỗi nón hình trứng gốm rất nhiều lá bắc dạng lá, màu vàng nhạt và mỏng khi chín, cái nọ phủ lên cái kia. Ở nách mỗi nón có hai hoa cái, sau khi thụ phấn sẽ cho một quả bế nhỏ.

B. PHÂN BỐ, THU HÁI VÀ CHẾ BIẾN

Mọc hoang dại và được trồng ở các nước ôn đới, ẩm thấp châu Âu và châu Mỹ (Pháp, Séc, Đức ...) để lấy hoa cái chế bia.

Khi trồng thường người ta loại bỏ những gốc cây đực để tránh thụ phấn với những hoa cái tạo những quả bế làm giảm mùi thơm của hoa.

Ở nước ta, mấy năm gần đây mới nhập nội loại cây này về trồng thí nghiệm ở Mộc Châu, Hà Bắc và Đà Lạt để lấy hoa cái chế rượu  bia.

Vào mùa hoa (tháng 6-7) người ta thu hái những nón hoa cái chín, sấy khô  ở nhiệt độ dưới 60o. Càng để lâu mùi thơm càng tăng. Ngoài hoa cái, người ta còn dùng lông tiết phủ trên lá bắc (chiếm 10 đến 12% trọng lượng cụm hoa cái) với tên lupulin.

Muốn chế lupulin, người ta đập hoa cái, lông tiết sẽ rụng ra dưới dạng bột màu nâu đỏ nhạt, rất dễ vón vào nhau, không bị nước làm ướt. Mùi rất hăng. Vị đắng. Khi soi kính hiển vi, ta sẽ thấy những lông có kích thước 150-250µ, chân ngắn gồm nhiều tế bào, với phần trên xếp thành hình cốc gồm một dãy tế bào tiết có lớp cutin bị nhựa dầu tiết ra làm dãn ra.

C. THÀNH PHẦN HÓA HỌC

Những nón hoa cái chứa khoảng 10% nước, 8% chất vô cơ, các chất lipit, sáp, một ít tanin, sắc tố flavon, chất xanthohumola (là một chalcon), các glucozit của quexetola và kaempferola. Các amin (trimetylamin) và cholin cũng đã phát hiện thấy.

Người ta cho rằng hoạt chất của nón hoa cái hublông là nhựa dầu (oleoresin) gồm: 0,50% tinh dầu với thành phần gồm các cacbua tecpenic: myxen, humulen, canaben và một este valerianic của bocneola.

10 đến 15% chất nhựa (resine) chứa những hợp chất đắng xeton với những gốc OH phenola (làm cho trước đây người ta tưởng lầm là axit): lupulon, (axit β-lupulinic) kèm theo những chất gần giống với những chuỗi đính khác nhau, rất dễ đồng phân hóa trong quá trình bảo quản. Những năm gần đây người ta đã phát hiện thấy các hợp chất trixeton có vòng năm cạnh: humulinon và hulupon.

D. CÔNG DỤNG VÀ LIỀU DÙNG

Về mặt y dược hoa hublông được dùng từ lâu đời làm thuốc giúp sự tiêu hóa, thuốc bổ đắng (dưới dạng thuốc hãm 10%). Người ta cho rằng hoa hublông có tác dụng gây động dục (oestrogène). Chất lupulin (lông tiết) được dùng làm thuốc giảm đau, thuốc dịu dục (bột dùng với liều 0,20g đến 1g, cao dùng với liều  0,10g đến 0,50g). Với liều cao có thể gây nhức đầu và buồn nôn.

Năm 1952, Erdman đã chứng minh tác dụng chống khuẩn của humulon lupulom và nhất là dẫn xuất hydrogen hóa của lupulon đối với các vi trùng Gram dương và vi trùng lao.

Trong công nghiệp bia: Công dụng lớn nhất của hoa hublông là trong công nghiệp chế bia: Trước khi cho lên men nước sắc mầm lúa mạch người ta thêm hoa hublông vào. Người ta cho rằng hoa hublông làm cho bia có mùi thơm, vị đắng và giúp bảo quản bia lâu hỏng.

Chú thích:

Nếu cây hoa hublông là một cây mới di thực thì ở trong nước ta vốn có mọc hoang dại một cây thuộc cùng chi tên là cây sàn sạt hay leo dây tên khoa học là Humulus japonicus Sieb. et Zucc, (Antidesma scandens Lour.) thuộc cùng họ Gai mèo (Canuabinaceae).

Đây là một loại dây leo thân có rãnh dọc, lá mọc đối, lá phía trên so le, phiến xẻ 5 thùy hình chân vịt, rộng 8cm, rất nhiều lông, mép có răng cưa. Hoa khác gốc, hoa đực mọc ở kẽ lá, thành chùy hình tháp, hoa cái thành hình xim co gần hình cầu. Hoa không cuống, mọc ở nách một lá bắc đính với một lá bắc con giống như một đài. Hoa đực có 5 lá đài có lông rải rác ở phần lưng. Nhị 5, chỉ nhị rất ngắn, bao phấn rời hình 4 cạnh. Hoa cái trần quả bế, màu vàng nhạt.

Hoa nở vào tháng 7 - 8. Cây mọc hoang dại ở khắp nơi. Trâu bò rất thích ăn. Hoa cái không thấy có lông tiết cho nên không thấy thơm và không dùng chế bia  được.

IMG

Lá sàn sạt có 0,05% luteolin-7D-glucozit C21H20O11, 1/2 H2O, 0,015% cosmosiin C21H20O10 , 0,005% vitexin C21H20O10. (Dược học tạp chí - Nhật - 1962, 82, 1331), ngoài ra còn ít tinh dầu, tanin. Hạt chứa 27,9% chất béo (Trung dược chí 1961, 719, 1647). Nhân dân dùng lá khô sắc uống chữa lỵ, sốt, khát nước. Có thể dùng lá tươi. Ngày dùng 10-16g lá khô.

Nguồn: Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tác giả: Giáo sư Tiến sĩ khoa học ĐỖ TẤT LỢI



Xin vui lòng ghi rõ nguồn http://www.dotatloi.com khi phát hành lại thông tin.


Tuyên bố miễn trừ trách nhiệm:
Thông tin trên www.dotatloi.com chỉ phục vụ nghiên cứu học tập và mở rộng kiến thức. Không sử dụng làm căn cứ để tiến hành chẩn trị trên lâm sàng. Thông tin trên www.dotatloi.com có thể được trích dẫn, thu thập từ các ấn phẩm, các trang tin điện tử liên quan trong nước và ngoài nước. Nếu phát sinh vấn đề bản quyền, kính đề nghị phản hồi cho chúng tôi.

Viết bình luận

Để thuận tiện cho việc đăng tải, xin vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.
Chúng tôi mong muốn nhận được những bình luận theo hướng mở rộng hoặc bổ sung thông tin liên quan đến bài viết.
Chúng tôi sẽ khóa những bình luận có ngôn từ mang tính kích động hoặc bất nhã.

focus Dây toàn
02/02/2025 10:51 CH

- 白毛藤. Còn gọi là già căn, douce amère. Tên khoa học Solanum dulcamara L. (Solanum lyratum Thunb.). Thuộc họ Cà (Solanaceae).

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu
Tên vị thuốc Mô tả
Vàng đằng Còn gọi là dây đằng giang, hoàng đằng, hoàng đằng lá trắng, dây khai, vàng đắng. Tên khoa học Coscinium usitatum Pierre. Thuộc họ Tiết dê (Menispermaceae).
Vỏ lựu - 石榴皮. Tức là vỏ cây quả cây thạch lựu Pericarpium granati (đã nói ở trên - mục thuốc trị giun sán). Trong vỏ quả lựu chứa chừng 28% chất tanin và chất màu. Các chất này có tính chất làm săn da và sát khuẩn mạnh.
Vối - 水榕, 水翁. Tên khoa học Cleistocalyx opercultus (Roxb). Merr et Perry (Eugenia operculata Roxb., Syzygium nervosum DC.). Thuộc họ Sim (Myrtaceae).
Vọng cách - 傘序臭黃荊 (伞序臭黄荆). Còn gọi là bọng cách, cách. Tên khoa học Premna integrifolia L. (Gumira littorea Rumph.). Thuộc họ Cỏ roi ngựa (Verbenaceae).
Vọng giang nam - 望江南. Còn gọi là cốt khí muồng, dương giác đậu, giang nam đậu, thạch quyết minh, sơn lục đậu, dã biển đậu, muồng hòa (miền Nam), muống lá khế. Tên khoa học Cassia occidentalsi L. Thuộc họ Vang (Caesalpiiaceae).
Xích thược - 赤芍. Xích thược Radix Paeonae rubrae là rễ phơi hay sấy khô của 3 loài thược dược: Thược dược (Paeonia lactiflora Pall.); Thảo thược dược (Paeonia obovata Maxim.); Xuyên xích thược (Paeonia veichii Lynch). Tất cả xích thược đều do cây mọc hoang cung cấp. Vào các tháng 3-5 hay các tháng 5-10 đào về, trừ bỏ thân rễ và rễ nhỏ, chia thành từng rễ to nhỏ riêng biệt, rửa sạch đất cát; phơi khô là được.
Xoan Còn gọi là sầu đâu, xoan trắng, xuyên luyện, khổ luyện, đốc hiên, sđâu (Cămpuchia), lilas du Jappon, lilas des Indes, laurier grec, faux sycomore. Tên khoa học Melia azedarach L. Thuộc họ Xoan (Meliaceae). Ta dùng vỏ thân, vỏ cành to và vỏ rễ phơi khô hay sấy khô của cây xoan - Cortex Meliae. Vỏ rễ tốt hơn.
Xương bồ - 菖蒲. Còn gọi là thạch xương bồ, thuỷ xương bồ. Tên khoa học Acorus gramineus Soland: Acorus calamus L. Thuộc họ Ráy (Araceae). Thạch xương bồ (Rhizoma Acoricalami) là thân rễ phơi khô của cây thạch xương bồ Acorus gramineus Soland. Thuỷ xương bồ (Rhizoma Acoricalami) là thân rễ phơi khô của cây thuỷ xương bồ Acorus calamus L. Xương là phồn thịnh, bồ là một thứ cỏ; xương bồ là một thứ cỏ bồ mọc chi chít.
ĐỐI TÁC - LIÊN KẾT
[ Lên đầu trang ]