Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu

HOÀNG ĐẰNG CHÂN VỊT - 毛葉輪環藤 (毛叶轮环藤)

Còn gọi là tờ rôn, nhân sâm, sâm nam, plou, plou bat (Cămpuchia).

Tên khoa học Cyclea peltata Hook. et. Thw (Cocculus peltatus DC).

Thuộc họ Tiết dê (Menispermaceae).

hoàng đằng chân vịt, 毛葉輪環藤, 毛叶轮环藤, tờ rôn, nhân sâm, sâm nam, plou, plou bat, Cyclea peltata Hook. et. Thw, Cocculus peltatus DC, họ Tiết dê, Menispermaceae

Hoàng đằng chân vịt - Cyclea peltata

A. MÔ TẢ CÂY

Dây leo to, đường kính 3-6cm, thân và cành có rãnh dọc, màu trắng ngà, có lông. Thân già màu xám xù xì. Cắt ngang có hình bánh xe với những tia tủy hình nan hoa bánh xe, màu vàng tươi. Lá có cuống dính ở 1/5-1/7 của phiến, phiến hình 3 cạnh, nhọn, đầu tận cùng bằng một móc hình sợi, dài 20-24cm, rộng 14-16cm, mặt trên màu xanh tươi, mặt dưới màu trắng ngà, gân lá hình chân vịt có 5-9 gân tỏa ra xung quanh.

Vì thân và rễ có màu vàng như cây hoàng đằng, nhưng lá có gân hình chân vịt, do đó được đặt tên hoàng đằng chân vịt để phân biệt với cây hoàng đằng. Cuống lá chỉ ngắn 2 phần chiều dài của lá. Cụm hoa mọc ở kẽ lá, phân nhánh, nhánh phía dưới dài hơn, có thể dài tới 7cm. Hoa hình đầu hay hình trứng. Quả hạch hình cầu, hơi dẹt, có phủ lông, đường kính 5mm. Nhân hình mắt chim, lồi ở hai mặt, với 8 vòng đồng tâm những mấu xù xì.

B. PHÂN BỐ, THU HÁI VÀ CHẾ BIẾN

Mọc hoang dại ở miền Nam nước ta, từ Quảng Nam, Quảng Ngãi trở vào. Còn thấy mọc ở Cămpuchia.

Người ta dùng thân cây và rễ cây hoàng đằng chân vịt. Thu hái gần như quanh năm.

Hái về thái mỏng, phơi hoặc sấy khô. Không phải chế biến gì đặc biệt. Có nơi dùng thân để nhai cùng với trầu không.

C. THÀNH PHẦN HÓA HỌC

Trong hoàng đằng chân vịt, có ancaloit, chủ yếu là becberin với tỷ lệ từ 1,5-2% (Nguyễn Liêm và cộng sự, 1975).

D. CÔNG DỤNG VÀ LIỀU DÙNG

Hoàng đằng chân vịt được nhân dân dùng làm thuốc nhuộm vàng.

Trong điều trị, hoàng đằng chân vịt dùng chữa bệnh đau mắt, ỉa chảy lỵ, sốt, sốt rét, bệnh về gan, mật, lòi dom.

Rễ còn có tác dụng lợi tiểu, tiêu độc.

Ngày dùng 4-6g dưới dạng thuốc bột, thuốc viên.

Còn có thể dùng làm nguyên liệu chiết becberin. Công dụng của becberin như sẽ nói trong vàng đằng.

Nguồn: Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tác giả: Giáo sư Tiến sĩ khoa học ĐỖ TẤT LỢI



Xin vui lòng ghi rõ nguồn http://www.dotatloi.com khi phát hành lại thông tin.


Tuyên bố miễn trừ trách nhiệm:
Thông tin trên www.dotatloi.com chỉ phục vụ nghiên cứu học tập và mở rộng kiến thức. Không sử dụng làm căn cứ để tiến hành chẩn trị trên lâm sàng. Thông tin trên www.dotatloi.com có thể được trích dẫn, thu thập từ các ấn phẩm, các trang tin điện tử liên quan trong nước và ngoài nước. Nếu phát sinh vấn đề bản quyền, kính đề nghị phản hồi cho chúng tôi.

Viết bình luận

Để thuận tiện cho việc đăng tải, xin vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.
Chúng tôi mong muốn nhận được những bình luận theo hướng mở rộng hoặc bổ sung thông tin liên quan đến bài viết.
Chúng tôi sẽ khóa những bình luận có ngôn từ mang tính kích động hoặc bất nhã.

focus Cây bồng bồng
09/04/2025 11:53 CH

- 牛角瓜. Còn có tên là nam tì bà, cây lá hen. Tên khoa học Calotropis gigantea R. Br. Thuộc họ Thiên lý (Asclepiadaceae).

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu
Tên vị thuốc Mô tả
Xương rồng - 火殃勒. Còn gọi là bá vương tiêm, hóa ương lặc. Tên khoa học Euphorbia antiquorum L. Thuộc họ Thầu dầu (Euphorbiaceae).
Xương sông - 千頭艾納香 (千头艾纳香). Còn gọi là rau súng ăn gỏi, xang sông, hoạt lộc thảo. Tên khoa học Blumea myriocephala DC. Conyza lanceolaria Roxb. Gorteria setosa Lour. (non L.). Thuộc họ Cúc Asteraceae (Compositae).
Xuyên khung - 川芎. Còn gọi là khung cùng, tang ky. Tên khoa học Ligusticum wallichii Franch. Thuộc họ Hoa Tán Apiaceae (Umblliferae). Xuyên khung (Rhizoma Ligustici wallichii ) là thân rễ phơi hay sấy khô của cây xuyên khung. Trong con người, cái đầu được coi là bộ phận cao nhất, như vòm trời. Vị thuốc này chuyên trị các chứng về đầu, não, do đó có tên (khung: cao; cùng: chỗ cuối cùng). Tên xuyên khung vì vị thuốc nguồn gốc ở tỉnh Tứ Xuyên. Hiện đã di thực được vào nước ta.
ĐỐI TÁC - LIÊN KẾT
[ Lên đầu trang ]