Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu

HỒ ĐÀO - 胡桃

Còn gọi là hạnh đào, hoàng đào, óc chó, cát tuế tử, phan la tư.

Tên khoa học Juglans regia L.

Thuộc họ Hồ đào (Juglandaceae).

HỒ ĐÀO, 胡桃, hạnh đào, hoàng đào, óc chó, cát tuế tử, phan la tư, Juglans regia L., họ Hồ đào, Juglandaceae

Hồ đào - Juglans regia

Cây hồ đào cho ta những vị thuốc sau đây:

1. Hồ đào nhân (Semen Juglandis) là nhân phơi hay sấy khô của quả hồ đào chín.

2. Lá hồ đào hay hồ đào diệp (Folium Juglandis) là lá cây hồ đào phơi khô.

3. Thanh long y (Pericarpium Juglandis) còn có tên hồ đào xác là vỏ quả hồ đào (phần thịt), phơi hay sấy khô.

4. Phân tâm mộc (Diaphragma Juglandis Fuctus) là mang ngăn cách trong nhân của hạt hồ đào hơi hay sấy khô.

Tên hồ đào vì cây vốn gốc ở rợ Khương Hồ (tên cổ của Ấn Độ một nước vùng Tây Nam châu Á).

Chương Khiên nhà Hán Trung Quốc đi sứ sang Tây Vực đem về trồng gọi là hồ đào; đào vốn ở rợ Hồ (Ấn Độ).

A. MÔ TẢ CÂY

Cây óc chó hay hồ đào là một cây to, cao tới 20m, sống lâu năm.

Lá kép lông chim, không có lá kèm; thường 7-9 lá chét; mép nguyên không cuống hình trứng thuôn; khi vò có một mùi hăng đặc biệt.

Hoa đơn tính, cùng gốc, kèm theo lá bắc sớm rụng. Hoa đực mọc tụ thành hình đuôi sóc rủ xuống, mỗi hoa ở một kẽ lá bắc, kèm theo có 2 lá bắc con. Nhị 30-40, có chỉ nhị ngắn, đỉnh có bao phấn 2 ngăn, quay vào trong. Hoa cái mọc đơn độc, thưa, bao hoa gồm 4-6 vẩy, bầu hạ, vòi nhụy ngắn. Bầu 1 ngăn, có 1 tiểu noãn mọc thẳng. Có 4 vách giả chia bầu thành 4 ngăn giả.

Quả hạch, có vỏ mẫm, đường kính chừng 3-4cm. Nhân nguyên ở phía trên, chia thành 4 thùy ở phía dưới, nhiều rãnh nhăn nheo, trông như óc, do đó có tên quả óc chó.

Mùa hoa: Mùa hạ; quả chín vào các tháng 9-10.

B. PHÂN BỐ, THU HÁI VÀ CHẾ BIẾN

Cây hồ đào hình như là một loài mới được di thực vào nước ta, thường chỉ thấy trồng ở một số tỉnh biên giới như Lào Cai, Hà Giang, Tuyên Quang, Cao Bằng, Lạng Sơn. Tuy nhiên số cây chưa nhiều, chỉ mới thấy chừng 1-2 nghìn cây.

Mọc hoang ở những nước vùng đông nam châu Âu tới tận Nhật Bản. Hiện được trồng ở những nước ôn đới châu Âu, tại Trung Quốc (nhiều nhất tại các tỉnh  miền Bắc). Cây hồ đào sống lâu năm, thường từ 15 năm trở lên, cây hồ đào mới cho hiệu suất cao nhất.

Muốn hái lá, thường hái suốt mùa hạ, tốt nhất vào các tháng 6-7. Chọn những lá xanh, tổt; thường chỉ hái lá chét, hoặc hái toàn lá sau đó lọc lấy lá chét, phơi thành lớp mỏng cho đến khô để khỏi phải đảo luôn. Không dùng những lá rụng, hoặc lá hái vào mùa thu. Thường người ta hay dùng lá tươi làm thuốc vì hoạt chất còn nguyên vẹn, giã ép lấy nước. Lá phơi khô bảo quản cẩn thận có màu lục, mùi thơm, vị đắng, chát.

Nếu dùng nhân thì đợi các tháng 9-10 khi quả chín hái về, bóc lấy vỏ ngoài, phơi khô, gọi là thanh long y.

Hạch gồm nhân và vỏ cứng phơi khô gọi là hồ đào. Lấy quả hạch, đập lấy nhân phơi khô gọi là hồ đào nhân và phần vách gọi là phân tâm mộc.

C. THÀNH PHẦN HÓA HỌC

Hồ đào nhân chứa chừng 40-50% chất béo. Muốn ép dầu hồ đào, cần phơi hạt cho khô và chờ ít nhất 3-4 tháng, vì nếu ép tươi dầu sẽ đục, khó lọc trong.

Thành phần của dầu gồm 7% axit béo đặc (axit myristic và axi lauric), các axit béo lỏng gồm có 80% axit linolic, 13% axit linolenic và isolinolenic, 7% axit oleic. Nhưng một số tác giả khác lại cho rằng trong dầu hồ đào có 78-83% axit linolic, 14-15% axit oleic, và 4% linolenic. Dầu hồ đào có tỷ trọng 0,924-0,925 ở nhiệt độ 15-18º thì đặc lại.

Ngoài chất béo ra, trong nhân dân hồ đào còn có 15,5% protein, 10,4% hydrat cacbon, 1,5% tro (magiê, mangan, canxi photphát, sắt, vitamin A, B2, C và E).

Thanh long y được bán trên thị trường châu Âu với tên brou de noix. Trong thanh long y có axit xitric, axit malic, juglin, hydrojuglon, axit ellagic, emunsin, peroxydaza và tro.

Lá hồ đào chứa một ít tinh dầu, chừng 5% chất đường inozitol, một tanin pyrogalic, axit galic và axit elagic. Trong lá hồ đào còn có chất juglon và hydrojuglon, một chất hắc và đắng là juglandin, một tinh dầu, chất nhựa và pectin.

IMG

Juglon là hydroxy-5 naphtoquinon-1,4 hydrojuglon là chất do khử oxy của juglon mà có.

Hydrojuglon ở dưới 2 dạng tôtôme: α-hydrojuglon (triphenolic) và β-hydrojuglon (dixetonic và monophenolic). Tỷ lệ juglon giảm ở các lá già. Do đó cần hái trước khi lá già, Juglon cho với đồng axetat những tinh thể  hình kim dài màu đỏ nâu.

Khi đun nóng các vi phẫu lá hồ đào, chất juglon thăng hoa cho tinh thể màu vàng tươi dài 300µ. Nước brôm cũng cho những tinh thể cùng kích thước.

Chất juglon gần như không ta trong nước; 2 chất hydro jnglon cũng chỉ tan một phần trong nước; chỉ riêng chất β-hydroxy juglon tan trong clorofóc, còn chất α-hydroxyjuglon chỉ chủ yếu tan trong cồn.

Chất α-hydroxyjuglon ra khí trời sẽ oxy hóa để cho juglon. Trong cùng một điều kiện,chất β-hydrojuglon không bị oxy hóa. Muốn cho hydrojuglon có thể chuyển thành juglon, cần đồng phân hóa nó thành dạng α bằng cách đun sôi trong cồn clohydric.

Người ta có thể chế được juglon dưới dạng tinh thể màu da cam. Nó tan trong  dung dịch kiềm để cho một dung dịch màu tím.

D. CÔNG DỤNG VÀ LIỀU DÙNG

Hồ đào được dùng trong cả đông y và tây y.

Tây y cho rằng tác dụng của hồ đào là do chất tanin; chất juglon có tính chất sát trùng là do có chức phenol, chất juglon còn có tác dụng hóa sừng các tổ chức, được dùng chữa những bệnh ngoài da.

Theo tài liệu cổ: Hồ đào nhân có vị ngọt, tính ôn, không độc; vào 2 kinh Phế và Thận. Có tác dụng bổ gan, thận, bền lưng, gối, cố thận, sáp tinh, liễm phế, chữa ho, trừ đờm, làm thuốc bổ, tu dưỡng, ăn vào béo người, nhuận da, đen tóc, lợi tiểu tiện, chữa 5 chứng trĩ.

Nhưng có tác giả thời cổ (Hoàng Cung Tú, đời nhà Thanh Trung Quốc) cho rằng ăn nhiều nhân hồ đào thì có thể rụng lông mi, lông mày, người nào phế có nhiệt đờm và hỏa ở mệnh môn  thì chớ dùng. Phàm không phải chứng hư hàn cấm dùng.

Tây y dùng lá hồ đào làm thuốc làm se da, sát trùng, bổ và lọc máu. Người ta pha thành thuốc pha như pha trà: 20g trong 1 lít nước để uống trong hay sắc 50% để súc miệng, thụt âm đạo, chữa khí hư. Nếu không có lá có thể dùng vỏ quả (thanh long y). Có tác giả (Reynaud, 1932) đã cho rằng thuốc pha lá hồ đào có tác dụng hạ glucoza huyết. Bò ăn lá hồ đào sẽ mất sữa.

Chất juglon được dùng chữa bệnh ngoài da như chốc lở, bệnh vẩy nến, eczêma, ngứa. Dùng dưới hình thức pha 0,50g juglon trong 100ml clorofóc trộn với vazơlin.

Hạt hồ đào thường dùng ép dầu ăn, khô dầu dùng cho trâu bò hay lợn ăn; nhưng nếu khô dầu để lâu thường bị khét, thịt bò lợn ăn phải sẽ có mùi khó chịu do đó khô dầu để lâu chỉ dùng để bón ruộng thôi.

Gỗ cây hồ đào hay được người chây Âu dùng làm báng súng và trong nghề mộc vì gỗ chắc, thớ mịn.

Đông y coi hồ đào bổ khí, nuôi huyết, nhuận táo, hóa đờm, ôn phế, nhuận tràng, lợi tam tiểu, ích mệnh môn, chữa hư hàn, ho suyễn (Lý Thời Trân). Thường chỉ hay dùng nhân với liều dùng 10-20g dưới dạng thuốc sắc, thuốc viên.

Đơn thuốc trong nhân dân có vị hồ đào:

   - Thanh nga hoàn, làm thuốc bổ, chữa đau lưng, mỏi gối (Hòa hán cục phương): Hồ đào nhân 30g nhân, bổ cốt chi 100g, đỗ trọng 100g. Tất cả giã nhỏ chế thành viên, mỗi ngày uống 3 lần, mỗi lần 5g.

   - Đơn thuốc chữa người già yếu, ho, thở, ngủ không được: Hồ đào bỏ vỏ, hạnh nhân vỏ vỏ và đầu nhọn, sinh khương mỗi vị 40g, giã nát, dùng mật viên to bằng hạt ngô. Buổi tối trước khi ngủ ngậm 1-2 viên, dùng nước gừng mà ngậm chung.

   - Chữa trẻ con chốc đầu: Hồ đào (cả vỏ) thiêu tồn tính để nguội thêm nửa phần kinh phấn, trộn đều, tán nhỏ, hòa với dầu thầu dầu bôi lên chỗ chốc đầu đã rửa sạch bằng nước trầu không hay nước bạch đồng nữ.

   - Chữa khí hư: Lá hồ đào tươi, sao vàng, sắc với nước, mỗi lít nước cho 50g lá tươi. Dùng thụt vào âm hộ.

Nguồn: Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tác giả: Giáo sư Tiến sĩ khoa học ĐỖ TẤT LỢI



Xin vui lòng ghi rõ nguồn http://www.dotatloi.com khi phát hành lại thông tin.


Tuyên bố miễn trừ trách nhiệm:
Thông tin trên www.dotatloi.com chỉ phục vụ nghiên cứu học tập và mở rộng kiến thức. Không sử dụng làm căn cứ để tiến hành chẩn trị trên lâm sàng. Thông tin trên www.dotatloi.com có thể được trích dẫn, thu thập từ các ấn phẩm, các trang tin điện tử liên quan trong nước và ngoài nước. Nếu phát sinh vấn đề bản quyền, kính đề nghị phản hồi cho chúng tôi.

Viết bình luận

Để thuận tiện cho việc đăng tải, xin vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.
Chúng tôi mong muốn nhận được những bình luận theo hướng mở rộng hoặc bổ sung thông tin liên quan đến bài viết.
Chúng tôi sẽ khóa những bình luận có ngôn từ mang tính kích động hoặc bất nhã.

focus Bổ béo
04/06/2025 08:34 CH

- Còn gọi là bùi béo, béo trắng. Tên khoa học Gomphandra tonkinesis Gagnep. Thuộc họ Thụ đào (Icacinaceae).

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu
Tên vị thuốc Mô tả
Mộc thông - 木通. Mộc thông là một vị thuốc ta vừa nhập của Trung Quốc, vừa khai thác trong nước. Nhưng ngay mộc thông của Trung Quốc cũng không thống nhất. Người ta đã thống kế, phát hiện thấy hơn 10 loại cây khác nhau, thuộc các họ thực vật khác nhau, chủ yếu thuộc 2 họ: Mộc hương (Aristolochiaceae), Mao lương (Rauunculaceae) cho vị thuốc mang tên mộc thông. Tại Việt Nam, cũng có mấy cây khai thác với tên mộc thông. Khi sử dụng cần chú ý theo dõi. Ở đây chúng tôi chỉ giới thiệu một số cây thường được dùng nhất. Vị mộc thông, nguyên gọi là thông thảo, vì có lỗ nhỏ ở hai đầu nên gọi tên như vậy ("mộc" là gỗ, "thông" là thông qua).
Móng lưng rồng - 九死還魂草 (九死还魂草). Còn gọi là chân vịt, quyển bá, vạn niên tùng, kiến thủy hoàn dương, hồi sinh thảo, trường sinh thảo, cải tử hoàn hồn thảo, hoàn dương thảo, nhả mung ngựa (Thái), thạch bá chi. Tên khoa học Selaginella tamariscina (Beauv.) Spring. Thuộc họ Quyển bá (Selaginellaceae).
Mù mắt - 馬醉草 (马醉草). Tên khoa học Isotoma longiflora Prest., Lobelia longiflora Willd., Laurentia longiflora (L.) Peterm. Thuộc họ Lobêli (Lobeliaceae).
Mù u - 海棠油. Còn gọi là đồng hồ, khung tung, khchyong (Cămpuchia). Tên khoa học Calophyllum mophyllum L. (Balsamaria inophyllum Lour.). Thuộc họ Măng cụt (Guttiferae).
Mùi tây - 歐芹 (欧芹). Còn gọi là rau pecsin, persil. Tên khoa học Petroselinum sativum Hoff. (Carum petroselinum Benth. et Hoof. f). Thuộc họ Hoa tán (Umbelliferae).
Muống biển - 馬鞍藤 (马鞍藤). Tên khoa học Ipomoea biloba Forsk, (Ipomoea maritima R. Br., Convolvulus pescaproe L. Batatas maritima Bojer.). Thuộc họ Bìm bìm (Convolvulaceae).
Muồng trâu - 翅荚决明, 对叶豆. Còn gọi là trong bhang, ana drao bhao (Buôm mê thuột), dâng het, tâng hét, dang hét khmoch (Campuchia) khi lek ban (Lào). Tên khoa học Cassia alata L., (Cassia bracteata L., Cassia herpetica Jacq.). Thuộc họ Vang (Caesalpiniaceae).
Muồng truổng - 簕欓花椒. Còn gọi là màn tàn, sen lai, tần tiêu, buồn chuồn, mú tương, cam. Tên khoa học Zanthoxylum avicennae (Lamk.) DC (Fagara avicennae Lamk., Zanthoxylum herculis Lour.). Thuộc họ Cam quít (Rutaceae).
Mướp - 山鐵樹 (山铁树). Còn gọi là mướp hương, ty qua, thiên ty qua, bố ty, ty lạc. Tên khoa học Luffa cylindrica (L. ) Roem, (Momordica cylindrica L.). Thuộc họ Bầu bí (Cucurbitaceae).
Mướp đắng - 苦瓜. Còn gọi là khổ qua, cẩm lệ chi, lại bồ đào, hồng cô nương, lương qua, mướp mủ, chua hao (Mường-Thanh Hóa). Tên khoa học Momordica charantia L. (Momordica balsamina Desc., Cucumis africanus Lindl.). Thuộc họ Bầu bí (Cucurbitaceae).
Mướp tây - 咖啡黃葵. Còn gọi là bông vàng, bắp chà, thảo cà phê (T.Q.). Tên khoa học Hibiscus esculentus L. (Albelmoschus esculentus Wight et Arn.). Thuộc họ Bông (Malvaceae).
Na - 番荔枝. Còn gọi là sa lê, mãng cầu, mãng cầu giai, mãng cầu ta, phan lệ chi. Tên khoa học Annona squamosa L. Thuộc họ Na (Annonaceae).Cây na cho ta các bộ phận sau đây dùng làm thuốc: Lá, hạt và quả.
Nấm hương - 香菇. Còn gọi là bioc hom, lét lang. Tên khoa học Lentinus edodes (Berk.) Sing.; Agaricus rhinonensis Berk. Thuộc họ Nấm tán Polyporaceae (Pleurotaceae).
Nấm linh chi - 靈芝草 (灵芝草). Còn gọi là linh chi thảo, nấm trường thọ, nấm lim, thuốc thần tiên. Tên khoa học Ganoderma lucidum (Leyss ex. Fr.) Karst. Thuộc họ Nấm gỗ (Ganodermataceae).
Nam sâm - 鵝掌柴. Còn có tên là sâm nam, cây chân chim, kotan (Lào), ngũ chỉ thông, áp cước mộc, nga chưởng sài. Tên khoa học Schefflera octophylla (Lour.) Harms, (Aralia octophylla Lour.). Thuộc họ Ngũ gia bì (Araliaceae). Ta dùng thân lá và rễ của cây chân chim làm thuốc.
Náng hoa trắng - 文殊蘭 (文殊兰). Còn gọi là cây lá náng, văn thù lan, hoa náng, chuối nước, thập bát học sĩ (Quảng Châu Trung Quốc). Tên khoa học Crinum asiticum L. (Crinum toxicarium Roxb.). Thuộc họ Thuỷ tiên (Amaryllidaceae).
Nàng nàng - 白毛紫珠. Còn gọi là trứng ếch, trứng ốc, bọt ếch, nổ trắng, co phá mặc lăm (Thái), pha tốp (Lai Châu), đốc pha nốc (Lào), srul kraham (Cămpuchia). Tên khoa học Callicarpa cana L. Thuộc họ Cỏ roi ngựa (Verbenaceae).
Nga truật - 蓬莪術 (蓬莪术). Còn gọi là ngải tím, tam nại, bồng truật, nghệ đen. Tên khoa học Curcuma zedoaria. Rosc. (Curcuma zerumbet Roxb.). Nga truật (Rizomza Zedoariae) là thân rễ phơi khô của cây ngải tím Curcuma zedoaria Rosc.
ĐỐI TÁC - LIÊN KẾT
[ Lên đầu trang ]