Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu

HẠT GẤC - 木鱉子 (木鳖子)

Còn gọi là mộc tất tử, thổ mộc miết, mộc biệt tử, mắc cao (Viêntian), Mákhâu (Thái), Mắc khấu (Thổ).

Tên khoa học Momordica cochinchinensis (Lour) Spreng (Muricia cochichinensis Lour., Muricia mixta Roxb).

Thuộc họ Bầu bí (Cucurbitaceae).

GẤC, 木鱉子, 木鳖子, mộc tất tử, thổ mộc miết, mộc biệt tử, mắc cao, Mákhâu, Mắc khấu, Momordica cochinchinensis (Lour) Spreng (Muricia cochichinensis Lour., Muricia mixta Roxb)., họ Bầu bí, Cucurbitaceae

Gấc - Momordica cochinchinensis

1. Cành mang quả; 2. Hạt cả màng; 3. Hạt

Cây gấc cho ta những vị thuốc sau đây:

1. Hạt gấc: Một miết tử (Semen momordicae) là hạt lấy ở quả gấc chín và phơi hay sấy khô.

2. Dầu gấc (Oleum Momordicae) là dầu ép tự màng đỏ bọc xung quanh hạt gấc.

3. Rễ gấc (Radix Momordicae) là rễ cây gấc phơi hay sấy khô.

A. MÔ TẢ CÂY

Gấc là một loại dây leo, mỗi năm khô héo một lần nhưng năm sau vào mùa xuân, từ gốc lại mọc ra nhiều thân mới. Mỗi gốc có nhiều dây, mỗi dây có nhiều đốt, mỗi đốt có lá.

Lá mọc so le, chia thùy khía sâu tới 1/3 hay 1/2 phiến. Đường kính phiến lá 12-20cm, phía đáy lá hình tim, mặt trên lá màu xanh lục xẫm, sờ ram ráp.

Hoa nở vào các tháng 4-5, đực cái riêng biệt. Cánh hoa màu vàng nhạt. Tháng 6 có quả non, hình bầu dục dài 15-20cm, đít nhọn, ngoài có nhiều gai mềm đỏ đẹp.

Trong quả có nhiều hạt xếp thành hàng dọc, quanh hạt có màng màu đỏ máu; khi bóc màng đỏ thấy có một lớp vỏ cứng đen, quanh mép có răng cưa tù và rộng hạt dài chừng 25-35cm, rộng 19-31mm, dày 5-10mm, trông gần giống con ba ba nhỏ bằng gỗ, do đó có tên mộc miết tử (mộc là gỗ, miết là con ba ba).

Trong hạt có nhân, chứa nhiều dầu.

B. PHÂN BỐ, THU HÁI VÀ CHẾ BIẾN

Gấc mọc hoang và được trồng khắp nơi ở Việt Nam, nhiều nhất ở miền Bắc. Còn thấy mọc ở Philipin, miền nam Trung quốc, Lào, Cămpuchia.

Trồng bằng hạt hay dâm cành vào các tháng 2-3, trồng một năm thu hoạch nhiều năm; mùa thu hoạch quả từ các tháng 8-9 đến hết tháng 1-2 năm sau. Sau đó cây lụi đi, sang xuất  lại nẩy chồi, mọc cây mới.

Người ta thường nói hạt gấc phải đồ chín thì cây gấc mới có quả. Sự thực dù trồng bằng hạt đã đồ chính hay chưa đồ chín vẫn cho quả. Ngay năm đầu đã có quả, nhưng còn ít, càng những năm sau càng nhiều quả.

Quả hái về, mổ lấy hạt với cả màng màu đỏ, nếu để nấu xôi thì dùng tươi sát với gạo. Nếu để chế thuốc thì cần phải sấy hay phơi khô cả hạt và màng cho đến khi cầm hạt không thấy dính tay nữa thì dùng dao nhọn bóc lấy màng đỏ, phơi hay sấy khô ở nhiệt độ thấp (60-70º). Với màng này người ta dùng chế dầu gấc. Còn lại hạt với lớp vỏ đen cứng đem phơi khô để dành dùng làm thuốc hay ép dầu.

Muốn chế dầu gấc, trước hết cần sấy khô màng hạt gấc: Sau đó tán nhỏ rồi áp dụng một trong mấy phương pháp sau đây:

   1. Chiết bằng dung môi (dùng ête dầu hỏa). Lấy kiệt bằng ête dầu hỏa. Sau đó thu hồi ête bằng cách đun cách thủy trong không khí trơ (khí cacbonic hay nitơ). Cặn còn lại là dầu gấc. Để lâu dầu gấc này sẽ để lắng một lớp tinh thể caroten. Tỷ lệ dầu trong màng đỏ là 8%; 100kg quả gấc cho chừng 1,9 lít  dầu gấc.

   2. Ép như ép dầu lạc. Màng đỏ đã sấy khô tán nhỏ, đem đồ lên rồi ép. Dầu ép được để lâu hay để vào tủ lạnh cũng phân thành 2 lớp như dầu chiết bằng ête. Dầu chế bằng hai phương pháp trên, muốn đem trung tính cầm áp dụng phương pháp loại axit tự do bằng cồn 95º.

   3. Phương pháp thủ công nghiệp. Khi ta có một số ít gấc muốn chế dầu gấc để dùng trong gia đình hay dùng trong một thời gian ngắn, ta có thể cho màng hạt gấc đã sấy khô tán nhỏ vào dầu lạc hay mỡ lợn đã đun nóng ở nhiệt độ 60-70º. Dầu lạc hay mỡ lợn sẽ hòa tan chất dầu chứa trong màng gấc. Đựng trong chai nhỏ, đổ đầy để tránh hiện tượng ôxy hóa.

   Dầu gấc nguyên chất (loại hết nước) bảo quản trong chai màu vàng hay tránh sánh sáng có thể giữ màu lâu, nhưng nếu dầu gấc có pha dầu lạc dù dầu lạc đã trung tính thì rất chóng mất màu, chưa rõ nguyên nhân.

C. THÀNH PHẦN HÓA HỌC

Trong nhân hạt gấc (mộc miết tử) có 6% nước, 2,9% chất vô cơ, 55,3% chất béo, 16,6% chất protit, 2,9% đường toàn bộ, 1,8% tanin, 2,8% xenloloza và 11,7% chất không xác định được. Ngoài ra còn có các men photphataza. invectaza và peroxydaza, một chất không tan trong ête dầu hỏa, trong ête êtylic, tan trong cồn mêtylic và có những tính chất và cho các phản ứng của một sapotoxin với chỉ số bọt 5.600, chỉ số chết cá 16.600, chỉ số phá huyết 62.500 (F.Guichard và Đào Sĩ Chu, Hà Nội, 1941).

Theo Baines (Kew Bull 1920: 6-12) trong hạt gấc không có ancaloit, chứa 47% so với nhân hoặc 29% (so với trọng lượng hạt cả vỏ cứng) dầu béo đặc ở nhiệt độ thường; khi mới ép có màu xanh lục nhạt, nhưng để lâu do tác dụng của ôxy và ánh sáng sẽ sẫm màu. Nếu đun nóng dầu cũng chóng sẫm màu. Dầu có tính chất nửa khô, nếu trộn với dầu khô, triển vọng có thể dùng trong kỹ nghệ sơn và vécni.

Trong màng đỏ hạt gấc Guichard và Bùi Đình Sang (1941) đã triết được 8% dầu màu đỏ máu. Nếu tính từ quả hiệu suất chừng 1,9 lít đối với 100kg quả tươi. Dầu gấc có chỉ số axit 2, chỉ số iôt 72, gồm 44,4% axit oleic, 7,69% axit stearic, 33,8% axit panmitic, 14,7% axit linoleic là một loại vitamin F. (Nguyễn Văn Đàn - Phạm Kim Mãn, Thông báo dược liệu 2.1969).

Dầu này sau khi ép hay chiết được bằng ête dầu hỏa để yên sẽ để lắng và kết tinh chừng 103% chất màu đỏ, sau đó nếu xà phòng hóa bằng rượu KOH rồi chiết bằng toluen, sẽ thu được thêm chừng 1,12% tinh thể nữa (tổng cộng 2,15 chất màu có tinh thể). Nếu tính trên quả tươi thì mỗi quả cho chừng 0,228g tinh thể có màu đỏ máu.

Tinh thể này có độ chảy 167-168º, không có tác dụng trên ánh sáng phân cực, pha thành dung dịch 1mg trong 1 lít cacbon sunfua cho 2 dải hấp màng; một dải giữa 4.999 A và 5.180 A và một dải giữa 5.406 A và 5.544 A. Tinh thể tan trong cacbon sunfua (cho dung dịch màu đỏ máu) trong clorofoc và ête dầu hỏa (cho dung dịch màu vàng đỏ) trong benzen cho dung dịch màu vàng cam), trong cồn etylic (màu vàng). Trọng lượng phân tử 568, cho với axit sunfuric đặc màu xanh  chàm phản ứng với thuốc thử carr và price (stibium clorua). Các tác giả (F. Guichard và Bùi Đình Sang) cho rằng tính chất của những tinh thể đó rất gần Caroten.

Theo sự phân tích của Nguyễn Văn Đàm (Nachweis von β-caroten in Momordica cochichinensis - Naturwissencchaften 1959, Hefl is 18) thì trong 12 ml có 4.000 đơn vị caroten β tương ứng với 6.666 đơn vị quốc tế vitamin A.

Tuy nhiên cũng nên biết rằng một tác giả Hà Lan (Boockenoogen 1949. The caroten content of the fruit of Momordica cochichinensis spreng phlip. J. sci 78:299-300) nghiên cứu gấc của Philipin đã kết luận rằng trong quả gấc chỉ có một lượng caroten không đáng kể.

Năm 1942, trong điều kiện phòng thí nghiệm P. Bonnet và Bùi Đình Sang đã chiết được từ 2.017kg quả gấc 38 lít dầu gấc và 0,300kg tinh thể caroten nữa (1g tinh thể trong 100g dầu lạc trung tính).

Các tác giả này tính rằng trong 1ml dầu gấc có tới 30mg caroten tương ứng với 30.000 đơn vị caroten hay 50.000 đơn vị quốc tế vitamin A.

Năm 1990, Đinh Ngọc Lâm và Hà Văn Mạo đã xác định trong dầu gấc có trên 0,1p100 β-caroten, lycopen, các axit béo không no (axit olêic 44p.100, palmitic 33p.100 và axit linolêic 14p.100). Như vậy so với dầu gan cá thu dầu gấc có hơn 1,81p. 100 β-caroten và 15 lần hơn so với carốt, uống vào lại thơm, ngon dễ chịu hơn.

Ngoài ra còn có một số chất vi lượng cần thiết cho cơ thể như đồng, sắt, cobant, và đặc biệt kẽm (rất cần thiết cho những người bệnh mãn tính về gan) và selenium, một chất mới được biết rất cần thiết để phòng chống ung thư.

D. TÁC DỤNG DƯỢC LÝ

Thí nghiệm trên lâm sàng đã chứng minh dầu gấc có tác dụng như những thuốc có vitamin A, đặc biệt khi bôi trên các vết thương, vết loét, dầu gấc làm vết thương chóng lành và chóng lên da. Uống dầu gấc, bệnh nhân chóng lên cân (Huard, Rivoalen, Grenierboley và Riou, Hà Nội 1942).

- Chúng ta biết rằng theo Moore, Karrer và Euler chất caroten dưới tác dụng của men carotenaza có nhiều trong gan sẽ tách caroten thành 2 phân tử vitamin A.

- Một số người yếu gan ăn nhiều dầu gấc da sẽ có màu vàng. Nghỉ ăn một thời  gian sẽ hết.

Năm 1990, Hà Văn Mạo, Đinh Ngọc Lâm và cộng sự đã báo cáo: Trên súc vật thí nghiệm và trên người bệnh, từ năm 1986 đến nay chế phẩm dầu gấc CAGAVIT có khả năng sửa chữa các hư hỏng của nhiễm sắc thể, các khuyết tật về phôi thai do dioxin gây trên động vật, khả năng phòng ung thư cho người bị bệnh xơ gan, khả năng hạ thấp hàm lượng AFP ở nhiều người bị bệnh gan mãn tính và không có tác dụng phụ.

Như vậy chúng ta có cơ sở để tin rằng chế phẩm dầu gấc có ích cho những người đã tiếp xúc nhiều với các tia xạ độc hại, với các hóa chất và những người đã bị viêm gan virut B, có nguy cơ bị bệnh ung gan.

E. CÔNG DỤNG VÀ LIỀU DÙNG

Nhân hạt gấc: Hạt gấc chỉ mới thấy dùng trong nhân dân chưa có cơ sở nghiên  cứu khoa học.

Theo các sách cổ: Hạt gấc vị đắng, hơi ngọt, tính ôn, hơi độc; vào 2 kinh Can và Đại tràng. Có tác dụng chữa mụn nhọt, tiêu thũng, dùng trong những trường hợp ngã, bị thương, sang độc, phụ nữ sưng vú, hậu môn sung thũng.

Uống trong và dùng ngoài. Chủ yếu dùng bôi ngoài.

Uống trong: Ngày 1 nhân nướng chín. Dùng ngoài không kể liều lượng.

Dầu gấc được sử dụng từ năm 1942. Dùng trong những trường hợp cần đến vitamin A hay caroten: Bệnh chậm lớn của trẻ em, biến chứng về mắt (khô mắt, quáng gà), chữa các vết loét, triệu chứng của sức kém chống đỡ bệnh tệt của cơ thể, làm cho mau lên da non, trong những vết bỏng, vết thương. Nhu cầu về vitamin A đối với cơ thể người lớn là 1-2mg một ngày, trẻ con đang tuổi lớn 3,6-4,8mg, lúc có thai và đang nuôi con 3mg. Nếu dùng caroten, số lượng phải dùng gấp 2 có lẽ vì một số bị cơ thể tích trữ.

Dùng trong với liều 5 giọt một lần, ngày 2 lần trước 2 bữa ăn chính; có thể  dùng tới 20 giọt. Đối với trẻ em, dùng 5 đến 10 giọt 1 ngày.

Dùng ngoài dưới hình thức thuốc mỡ có 5 đến 10% dầu gấc; có thể dùng dưới  hình thức dầu nguyên chất để bôi bỏng.

Rễ gấc: Một số người dùng nhầm với tên phòng kỷ hay nam phòng kỷ (thực tế phòng kỷ là một vị thuốc khác hẳn, xem vị này: http://dotatloi.com/nhung-cay-thuoc-va-vi-thuoc-viet-nam/ket-qua-tra-cuu/phong-ky). Sao vàng tán nhỏ dùng chữa tê thấp, sưng chân.

Đơn thuốc có hạt gấc dùng trong nhân dân:

   - Chữa trĩ lòi dom: Hạt gấc giã nát thêm một ít dấm thanh gói bằng vải đắp vào nơi bị trĩ (hậu môn) để suốt đêm.

   - Chữa sưng vú: Giã nhân hạt gác với một ít rượu (30-40º) đắp lên nơi sưng đau.

Nguồn: Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tác giả: Giáo sư Tiến sĩ khoa học ĐỖ TẤT LỢI



Xin vui lòng ghi rõ nguồn http://www.dotatloi.com khi phát hành lại thông tin.


Tuyên bố miễn trừ trách nhiệm:
Thông tin trên www.dotatloi.com chỉ phục vụ nghiên cứu học tập và mở rộng kiến thức. Không sử dụng làm căn cứ để tiến hành chẩn trị trên lâm sàng. Thông tin trên www.dotatloi.com có thể được trích dẫn, thu thập từ các ấn phẩm, các trang tin điện tử liên quan trong nước và ngoài nước. Nếu phát sinh vấn đề bản quyền, kính đề nghị phản hồi cho chúng tôi.

Viết bình luận

Để thuận tiện cho việc đăng tải, xin vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.
Chúng tôi mong muốn nhận được những bình luận theo hướng mở rộng hoặc bổ sung thông tin liên quan đến bài viết.
Chúng tôi sẽ khóa những bình luận có ngôn từ mang tính kích động hoặc bất nhã.

Đảm phàn
03/07/2025 09:11 CH

- 膽礬 (胆矾). Còn gọi là thạch phàn. Tên khoa học chalcanthitum, vitriolum caeruleum. Đảm phàn là một khoáng vật thiên nhiên có chứa đồng sunfat (CuSO4) hoặc là một sản phẩm do chế tạo hóa học mà có. Đảm phàn dược dùng từ lâu trong Đông y, có ghi trong "Thần n...

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu
Tên vị thuốc Mô tả
Tràm và tinh dầu tràm - 白千層 (白千层). Còn gọi là cây chè cay, chè đồng, smachchanlos, - smach tachah (Campuchia), cajeputier (Pháp). Tên khoa học Melaleuca leucadendron L. Thuộc họ Sim (Myrtaceae). Cây tràm cho ta những vị thuốc sau đây: (1) Cành non mang lá tươi hay phơi khô; (2) Tinh dầu tràm thường gọi là tinh dầu khuynh diệp; (3) Tinh dầu tràm tinh chế.
Trăn - 蚺蛇. Tên khoa học Python molurus (trăn mốc), Python reticulatus (trăn mắt võng). Thuộc họ Trăn (Boidae). Con trăn cho ta xương trăn để nấu cao làm thuốc.
Trân châu - 珍珠. Còn có tên là ngọc trai, bạng châu. Trân châu (Margarita, Perla, Pearl) là hạt ngọc trong nhiều loài trai như con trai Pteria (Pinctada) martensii Dunker (Avicula martensii Dunker) thuộc họ Trân châu (Aviculidae hay Pteridae).
Trẩu - 石栗. Còn gọi là cây dầu sơn, ngô đồng, mộc đu thụ, thiên niên đồng, bancoulier, abrasin. Tên khoa học Aleurites montana (Lour.) Wils. Thuộc họ Thầu dầu (Euphorbiaceae). Cây trẩu cho ta một loại dầu sơn rất quý dùng trong nước và xuất khẩu. Khô dầu trẩu là một nguồn phân bón ruộng, có tác dụng trừ sâu.
Trầu không - 蒟醬 (蒟酱). Còn gọi là trầu, thược tương, mô-lu (Cămpuchia), hruè êhang (Buôn Mê Thuột). Tên khoa học Piper betle L. (Piper siriboa L.). Thuộc họ Hồ tiêu (Piperaceae).
Tri mẫu - 知母. Tên khoa học Anemarrhena aspheloides Bunge. Thuộc họ Hành tỏi (Liliaceae). Tri mẫu (Rhizoma Anemarrhenae) là thân rễ phơi hay sấy khô của cây tri mẫu Anemarrhena aspheloides thuộc họ Hành tỏi (Liliaceae). Tri mẫu vốn tên là chi mâu do chi mâu là trứng con kiến, vì lúc mầm cây này mọc lên trông giống trứng con kiến, cho nên gọi tên. Sau đọc chệch thành tri mẫu.
Trinh nữ hoàng cung - 西南文殊蘭 (西南文殊兰). Còn gọi là Hoàng cung trinh nữ - Tây nam văn châu lan - Thập bát học sĩ (Trung Quốc), Tỏi Thái Lan. Tên khoa học Crinum latifolium L. Thuộc họ Thuỷ tiên Amaryllidaceae. Tên trinh nữ hoàng cung do cây này được dùng để trị bệnh cho những phụ nữ còn trinh tiết được tuyển chọn vào cung vua nhưng không được vua chú ý nên mắc một số bệnh riêng của những phụ nữ sống trong cùng hoàn cảnh.
Trúc nhự - 竹茹. Còn gọi là trúc nhị thanh, đạm trúc nhự. Tên khoa học Caulis Bvambusae in Taeniis. Trúc nhự là vị thuốc chế bằng cách cạo vỏ xanh của cây tre (Bambusa sp.), cây vầu (Phyllostachys sp.) và nhiều loại tre bương khác thuộc họ Lúa (Gramineae), sau đó cạo lớp thân thành từng mảnh mỏng hay sợi mỏng, rồi phơi hay sấy khô.
Trứng cuốc - 斑果藤. Còn có tên là mắc năm ngoa (Viêntian), con go, mang nam bo (Thổ). Tên khoa học Stixis elongata Pierre. Thuộc họ Màn màn (Capparidaceae).
Tử uyển - 紫菀. Còn gọi là thanh uyển, dã ngưu bàng. Tên khoa học Aster tataricus L. Thuộc họ Cúc Asteraceae (Compositae). Tử uyển (Radix Asteris) lá rễ và thân phơi hay sấy khô của cây tử uyển. Từ là tía, uyển là mềm; vì tử uyển là một vị thuốc có màu tím lại mềm.
Tục đoạn - 續斷 (续断). Còn gọi là sâm nam, đầu vù (Mèo), rễ kế (miền Nam), djaou pa en (Mèo Xiêng khoảng). Tên khoa học Dipsacus japonicus Miq. Thuộc họ Tục đoạn (Dipsacaceae). Tục đoạn hay sâm nam (Radix Dipsaci) là rễ phơi hay sấy khô của cây tục đoạn. Tục là nối, đoạn là đứt vì người xưa cho rằng vị thuốc có tác dụng nối được gân xương đã đứt.
Tục tùy tử - 續隨子 (续随子). Còn gọi là Thiên kim tử. Tên khoa học Euphorbia lathyris Lin. Thuộc họ thầu dầu (Euphorbiaceae).
Tùng hương - 松香. Còn gọi là tùng chi, tùng cao, tùng giao. Tên khoa học Resina Pini - Colophonium. Tùng hương hay tùng chi là phần đặc còn lại sau khi cất nhựa thông với nước.
Tỳ giải - 萆薢. Còn gọi là xuyên tỳ giải, tất giã, phấn tỳ giải. Tên khoa học Dioscorea tokoro Makino. Thuộc họ Củ nâu (Dioscoreaceae). Tỳ giải (Rhizoma Dioscoreae) là thân rễ phơi hay sấy khô của cây tỳ giải.
Tỷ giải - 萆薢. Còn gọi là xuyên tỳ giải, tất giã, phấn tỳ giải. Tên khoa học Dioscorea tokoro Makino. Thuộc họ Củ nâu (Dioscoreaceae). Tỳ giải (Rhizoma Dioscoreae) là thân rễ phơi hay sấy khô của cây tỳ giải.
Vải - 荔枝. Còn gọi là quả vải, lệ chi, phle kulen (Campuchia). Tên khoa học Litchi sinensis Radlk. (Nephelium litchi Cambess, Euphoria litchi Desf). Thuộc họ Bồ hòn (Sapindaceae).
Vạn niên thanh - 萬年青 (万年青). Còn gọi là thiên niên vận, đông bất điêu thảo, cửu tiết liên. Tên khoa học Rhodea japonica Roth. Thuộc họ Hành tỏi (Liliaceae). Cần chú ý ngay rằng tên vạn niên thanh ở nước ta thường dùng để gọi nhiều cây khác nhau. Cây vạn niên thanh ta trông làm cảnh là cây Aglaonema siamense Engl, thuộc họ Ráy (Araceae). Còn cây vạn niên thanh giới thiệu ở đây thuộc họ Hành tỏi, hiện chúng tôi chưa thấy trồng ở nước ta, nhưng giới thiệu ở đây để tránh nhầm lẫn.
Vạn niên thanh - 萬年青 (万年青). Còn gọi là co vo dinh (Thổ), han phan (Lào), kom ponh (Cămpuchia). Tên khoa học Aglaonema siamense Engl. Thuộc họ Ráy (Araceae).
ĐỐI TÁC - LIÊN KẾT
[ Lên đầu trang ]