Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu

HÀNH - 葱白

Còn gọi là hành hoa, đại thông, thông bạch, tứ quý thông, hom búa (Thái), thái bá, lộc thai, hoa sự thảo, khtim (Campuchia), ciboule, cive.

Tên khoa học Allium fistulosum L.

Thuộc họ Hành tỏi (Liliaceae).

HÀNH, 葱白, hành hoa, đại thông, thông bạch, tứ quý thông, hom búa, thái bá, lộc thai, hoa sự thảo, khtim, ciboule, cive, Allium fistulosum L., họ Hành tỏi, Liliaceae

Hành ta - Allium fistulosum

HÀNH, 葱白, hành hoa, đại thông, thông bạch, tứ quý thông, hom búa, thái bá, lộc thai, hoa sự thảo, khtim, ciboule, cive, Allium fistulosum L., họ Hành tỏi, Liliaceae

Hành tây - Allium cepa

Thông là rỗng, bạch là trắng; vì dọc cây hành (lá) thì rỗng, dò hành ("củ") có màu trắng, do đó có tên này.

A. MÔ TẢ CÂY

Hành lá một loại cỏ sống lâu năm, có mùi đặc biệt.

Lá gồm 5-6 lá, hình trụ rỗng, dài 30-50cm, đường kính 4-8mm, phía giữa phình lên, đầu thuôn nhọn.

Cụm hoa mọc trên một cán mang hoa hình trụ, rỗng; cụm hoa hình xim có ngấn thành hình tán giả, nhưng cuống tán giả ngắn đến nỗi cụm hoa trông giống hình cầu. Bao hoa gồm 2 vòng, mỗi vòng gồm 3 cánh, 3 lá đài màu trắng 6 nhị, chỉ nhị phình ở gốc, không có răng, bao phấn hình chữ T, 2 ngăn, dài 1mm; một nhuỵ, bầu thượng, 3 ngăn, mỗi ngăn có nhiều noãn.

Quả nang, hình tròn đường kính chừng 6mm; hạt hình 3 cạnh, màu đen.

B. PHÂN BỐ, THU HÁI VÀ CHẾ BIẾN

Hành được trồng ở khắp nơi trong nước ta, chủ yếu để làm gia vị, đồng thời dùng làm thuốc (dùng cu tức là dò). Còn được trồng ở nhiều nước khác châu Á và châu Âu.

Mùa chủ yếu là vào tháng 10-11 nhưng có thể có quanh năm.

Dùng tươi hay khô đều được.

C. THÀNH PHẦN HÓA HỌC

Trong hành có axit malic, phytin và chất alylsunfit.

Có tác giả nói trong hành có tinh dầu, trong tinh dầu chủ yếu có chất kháng sinh alixin C6H10OS2. Công thức của alixin là:

IMG

Chúng ta đã biết alixin là một chất dầu không màu, tan trong cồn, trong benzen, ête, khi hòa tan trong nước dễ bị thuỷ phân, có tác dụng diệt khuẩn rất mạnh (xem vị tỏi).

D. CÔNG DỤNG VÀ LIỀU DÙNG

Hành là một vị thuốc rất thông dụng trong nhân dân.

Được ghi trong các tài liệu cổ từ lâu: Trong các tài liệu cổ này, người ta cho rằng hành có vị cay, bình mà không độc; có năng lực phát biểu, hòa trung, thông dương, hoạt huyết, dùng làm thuốc ra mồ hôi, lợi tiểu, sát trùng, chữa đau răng, sắc uống lấy nước chữa các chứng sốt, sốt rét, cảm, nhức đầu, mặt mày phù thũng, còn làm yên thai, sáng mắt, lợi ngũ tạng. Vào hai kinh thủ thái âm (phế kinh) và túc dương minh (vị kinh); nhưng các sách cổ còn nói thêm rằng ăn nhiều quá thì tóc bạc, hư khí xông lên không ra mồ hôi được.

Hiện nay người ta cho rằng hành có tác dụng kích thích thần kinh, làm tăng sự bài tiết dịch tiêu hóa, có thể dùng để đề phòng ký sinh trùng đường ruột. Còn dùng trị tê thấp. Tinh dầu hành có tác dụng sát khuẩn mạnh, dùng ngoài chữa những mụn nhọt mưng mủ, dùng nước hành nhỏ mũi chữa được ngạt mũi, cấp tính và mãn tính, viêm niêm mạc mũi, khi bị cảm mạo, đầu nhức, mũi ngạt thì có thể dùng hành giã nát, thêm nước sôi vào rồi xông, hoặc cho hành vào cháo nóng mà ăn thì chóng khỏi.

Mỗi lần có thể dùng với liều 30 đến 60g dưới hình thức thuốc sắc hay giã nát ép lấy nước mà uống.

Dùng ngoài không kể liều lượng.

Đơn thuốc có hành:

   - Chữa cảm mạo, đầu nhức mũi ngạt: Hành 30g, đạm đậu sị 15g, sinh khương 10g, chè hương 10g, nước 300ml; đun sôi, gạn bỏ bã, uống khi còn đang nóng, uống xong đắp chăn kín cho ra mồ hôi.

   - Chữa trẻ con cảm mạo: Hành 60g, sinh khương 10g. Hai thứ giã nát, thêm một cốc nước thật sôi vào, dùng hơi xông vào miệng và mũi, ngày làm mấy lần, không cần cho uống.

   - Chữa mụn nhọt: Hành tươi giã nát, trộn với mật, đắp lên mụn, hễ ngòi ra thì dùng dấm mà rửa mụn.

   - Phụ nữ động thai: Hành tươi 60g, thêm một bát nước, sắc kỹ lọc bỏ bã, cho uống.

Chú thích:

   Ngoài cây hành nói trên, hiện nay nhiều nước còn dùng cây hành tây hay dương thông (Allium cepa L.) làm thuốc. Cây này nguồn gốc miền tây Châu Á nhưng hiện nay được trồng ở nhiều nước.

   Tại nước ta trước đây có trồng, nhưng hiện nay ít trồng hơn. Cây hành tây có dò to hơn, hình cầu dẹt, ngoài có vẩy màu đỏ nâu, lá hình trụ rỗng, dài 25-50cm, đường kính 1-1,5cm, cán mang hoa có thể cao tới 1m, rỗng, cụm hoa hình tán nhưng tụ thành hình cầu màu hơi hồng hay hơi trắng, quả khô, trong chứa nhiều hạt dẹt, màu đen.

   Trong củ hành tây có 0,015% tinh dầu, trong tinh dầu thành phần chủ yếu là allyl - disunfua, allyl - propyl - disunfua, ngoài ra còn phytin, axit hữu cơ (axit focmic, malic, xitric và photphoric) các chất inulin, manit, manoza, mantoza, các men emunxin, vitamin B và C. Gần đây nhà bác học Liên Xô B. P. Tokin phát hiện thấy trong hành tây có chất kháng sinh rất mạnh đặt tên là phytonxit. Do chất này, khi ta nhai hành tây trong miệng 1-2 phút, miệng trở nên sạch sẽ, vô trùng.

   Ngoài công dụng làm gia vị, hành tây được dùng chữa ho, trừ đờm, ra mồ hôi, lợi tiểu tiện, dùng trong chứng bụng nước do gan cứng (ascite de la cirrhose hepatique), còn dùng đắp mụn nhọt.

   Dùng dưới hình thức cồn thuốc tươi (một phần nước ép củ hành tươi, một phần cồn 90o). Ngày uống 14-40g cồn thuốc này. Hoặc có thể dùng dưới dạng rượu vang (nước ép củ hành tươi 200g, mật ong 100g, vang hay rượu nhẹ độ - 12o đến 14o vừa đủ 1 lít). ngày uống 2 lần, sáng và tối, mỗi lần 30 đến 60g.

Nguồn: Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tác giả: Giáo sư Tiến sĩ khoa học ĐỖ TẤT LỢI



Xin vui lòng ghi rõ nguồn http://www.dotatloi.com khi phát hành lại thông tin.


Tuyên bố miễn trừ trách nhiệm:
Thông tin trên www.dotatloi.com chỉ phục vụ nghiên cứu học tập và mở rộng kiến thức. Không sử dụng làm căn cứ để tiến hành chẩn trị trên lâm sàng. Thông tin trên www.dotatloi.com có thể được trích dẫn, thu thập từ các ấn phẩm, các trang tin điện tử liên quan trong nước và ngoài nước. Nếu phát sinh vấn đề bản quyền, kính đề nghị phản hồi cho chúng tôi.

Viết bình luận

Để thuận tiện cho việc đăng tải, xin vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.
Chúng tôi mong muốn nhận được những bình luận theo hướng mở rộng hoặc bổ sung thông tin liên quan đến bài viết.
Chúng tôi sẽ khóa những bình luận có ngôn từ mang tính kích động hoặc bất nhã.

focus Sấu
28/04/2025 01:46 SA

- 人面子. Còn gọi là sấu trắng, sấu tía. Tên khoa học Dracontomelum duperreanum Pierre. Thuộc họ Đào lộn hột (Amacardiaceae).

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu
Tên vị thuốc Mô tả
Cà gai leo - 細顛茄 (细颠茄). Còn gọi là cà quính, cà quánh, trap khar (Campuchia), Blou xít (Lào). Tên khoa học Solanum proucumbens Lour. (Solanum hainanense Hance). Thuộc họ Cà (Solanaceae).
Cà rốt - 胡蘿蔔 (胡萝卜). Còn gọi là hồ la bặc (Trung Quốc). Tên khoa học Daucus carota L. Thuộc họ Hoa tán (Umbelliferae).
Cà tàu - 黄果茄. Còn gọi là cà dại trái vàng. Tên khoa học Solanum xanthocarpum Schrad và Wondl. Thuộc họ Cà (Solanaceae).
Cải bắp - 卷心菜. Tên khoa học Brassia oleracea Linn. var capitata D. C. Thuộc họ cải (Brassicaceae).
Cải canh - 芥菜. Còn có tên là cải dưa, cây rau cải, giới tử. Tên khoa học Brassica juncea (l.) Czermet Coss. (Sinapis juncea L.). Thuộc họ Cải (Brassicaceae). Giới tử Sinapis - Semen Sinapis hay Semen Brassicae junceae là hạt phơi hay sấy khô lấy ở quả chín của cây cải canh.
Cải cúc - 茼蒿. Còn gọi là rau cúc, cúc tần ô, đồng hao (T.Q.), chrysanthème des jardins, chrysan thème à couronne. Tên khoa học Chrysanthemum coronarium L. Thuộc họ Cúc Asteraceae (Compositae).
Cẩm xà lặc Còn gọi là mỏ quạ, mỏ ó, găng cơm, găng vàng, găng sơn, găng cườm, thiết thỉ mễ (Trung Quốc). Tên khoa học Canthium parvifolium Roxb. Thuộc họ Cà phê (Rubiaceae). Cẩm xà lặc là tên vỏ cây này được xuất bán cho Trung Quốc. Tên này phổ biến ở tỉnh Quảng Bình là nơi được khai thác thu mua để xuất. Tại những nơi khác tên mỏ quạ, mỏ ó phổ biến hơn. Cũng có nơi gọi là cây găng. Tên mỏ quạ còn dùng để chỉ một cây khác (xem vị này) cần chú ý tránh nhầm.
Canh châu - 雀梅藤. Còn gọi là chanh châu, trân châu, kim châu, khan slan (Lạng Sơn), xích chu đằng, tước mai đằng. Tên khoa học Sageretia theezans (L.) Brongn. (Rhamnus theezans L.). Thuộc họ Táo ta (Rhamnaceae). Ta dùng cành và lá cây canh châu khô làm thuốc hay pha nước uống thay chè.
Canh ki na - 金雞納 (金鸡纳). (Cinchona-Cortex - Chinae - Cortex Cinchonae). Cankina là tên phiên âm tiếng Pháp của cây quinquina.
Cánh kiến đỏ - 紫梗. Còn gọi là tử giao, tử ngạnh, xích giao, hoa một dược, dương cán tất, tử trùng giao, tử thảo nhung. Tên khoa học Lacca-Stick-lac. Cánh kiến đỏ (Lacca) là chất nhựa màu đỏ do một loài rệp son cánh kiến đỏ - Laccifer lacca Kerr. - thuộc họ Sâu cánh kiến lacciferidae hút nhựa cây chủ bài tiết ra. Tên con rệp son, có tác giả xác định là Tachardia lacca R. Bld. (Tachard là một nhà truyền giáo Pháp đã nghiên cứu cánh kiến đỏ ở Pondichery Ấn Độ và báo cáo ở Viện hàn lâm Pháp năm 1710), cũng có tác giả xác định là Carteria lacca Sign. (do Carter đã nghiên cứu cánh kiến đỏ ở Bombay, Ấn Độ năm 1860-1861). Hiện nay tên Laccifer lacca Kerr. thông dụng hơn cả. Tuy nhiên có thể những chủng đó có chỗ khác nhau, ta chưa phát hiện được.
Cánh kiến trắng - 安息香. Còn có tên cây bồ đề, an tức hương, benzoin. Tên khoa học Styrax tonkinonse Pierre. Thuộc họ Bồ đề (Styracaceae). Theo sách cổ; an = yên, tức = nghỉ, vì mùi thơm của cây làm cho ma quỷ phải yên, không quấy rối người. Có người lại giải thích An tức là tên cổ của một địa phương ngoài Trung Quốc; vì cây có hương thơm, nguồn gốc ở nước An Tức xưa. An tức hương (Benzoinum - Benzoe) là nhựa của cây cánh kiến trắng hay cây bồ đề.
Canhkina - 金雞納 (金鸡纳). Tên khoa học Cinchona sp. Thuộc họ Cà phê (Rubiaceae). Tùy theo mục đích chữa bệnh hay làm nguyên liệu chiết ancaloit người ta dùng vỏ những cây canhkina khác nhau: (1) Để làm thuốc bổ, chữa sốt thường người ta dùng vỏ cây canhkina đỏ - Cinchona succirubra Pavon; (2) Để chiết ancaloit toàn phần người ta có thể dùng vỏ cây canhkin đỏ hoặc vỏ canhkina vàng Cinchona calisaya Wedd, hoặc canhkina Cinchona ledgeriana Moens; (3) Vỏ cây canhkina xám (Cinchona officinalis L.) thường được dùng chế rượu khai vị.
Cảo bản - 藁本. Cảo bản là một vị thuốc tương đối thông dụng trong Đông y. Vì gốc cây như gốc lúa ("cảo" = lúa, "bản" = gốc) do đó có tên cảo bản. Trên thị trường có 2 loại cảo bản: 1. Bắc cảo bản - Rhizoma et Radix Ligustici jeholensis; 2. Tây khung cảo bản - Rhizoma et Radix Ligustici sinensis...
Cát cánh - 桔梗. Tên khoa học Platycodon grandiflorum A. DC. Thuộc họ Hoa chuông (Campanulaceae). Cát cánh hay kết cánh (Radix platycodi) là rễ khô của cây cát cánh. Tên Platycodon do chữ Platys là rộng, Codon là chuông. Grandiflorum do chữ grandi là to, florum là hoa vì cây cát cánh có hoa to hình cái chuông rộng.
Cẩu tích - 狗脊. Còn gọi là rễ lông cu ly, kim mao cẩu tích, cẩu tồn mao, cây lông khỉ. Tên khoa học Cibotium barometz (L.) J. Sm. Thuộc họ Lông cu ly (Dicksoniaceae). Cẩu tích hay kim mao, cẩu tích (Rhizoma Cibotii) là thân rễ phơi hay sấy khô, có khi thái mỏng, phơi hay sấy khô của cây lông cu ly. Cẩu là con chó, tích là lưng, xương sống. Vì vị thuốc chưa thái giống lưng con chó, do đó có tên này.
Cây áctisô - 菜薊 (菜蓟). Tên khoa học Cynara scolymus L. Thuộc họ Cúc Asteraceae (Compositae). Ta dùng thân và lá tươi của cây áctisô.
Cây ba gạc - 蘿芙木 (萝芙木). Còn có tên là la phu mộc, san to (Sapa), lạc toọc (Cao Bằng). Tên khoa học Rauwolfia verticillata (Lour) Baill. Thuộc họ Trúc đào (Apocynaceae). Người ta dùng rễ phơi hay sấy khô (Radix Rauwolfiae verticillatae) của cây ba gạc, hay la phu mộc. La phu mộc = dịch âm Trung Quốc của chữ Râuvonphia (Rauwolfia) tên khoa học của cây này. Tên san to nghĩa là ba chạc, vì cây có 3 lá, chia ba cành. Tên lạc toọc nghĩa là một rễ, vì cây có một rễ.
Cây ba gạc Ấn Độ - 印度蘿芙木 (印度萝芙木). Còn có tên Ấn Độ sà mộc, Ấn Độ la phù mộc. Tên khoa học Rauwoflia serpentina Benth. Thuộc họ Trúc đào (Apocynaceae). Người ta dùng rễ phơi hay sấy khô (Radix Rauwfliae serpentinae) của cây ba gạc Ấn Độ.
ĐỐI TÁC - LIÊN KẾT
[ Lên đầu trang ]