Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu

GAI DẦU - 火麻

Còn gọi là gai mèo, lanh mán, lanh mèo, đại ma, cần sa, sơn ty miêu, ko phai meo (Thái), khan sua (Lào), khanh chha (Campuchia), chanvre.

Tên khoa học Cannabis sativa L.

Thuộc họ Gai mèo (Cannabinaceae).

GAI DẦU, 火麻, gai mèo, lanh mán, lanh mèo, đại ma, cần sa, sơn ty miêu, ko phai meo, khan sua, khanh chha, chanvre, Cannabis sativa L., họ Gai mèo, Cannabinaceae

Gai dầu - Cannabis sativa

A. MÔ TẢ CÂY

Cây thảo, sống hằng năm, khác gốc, thân th1/4ng đứng cao 1-2m, phân ít hay nhiều cành. Toàn các bộ phận của cây đều phủ một lớp lông mịn. Lá thường mọc cách, có cuống, có lá kèm. Lá phía dưới chia thùy đến tận cuống, phiến thùy hình mác, nhọn, mép có răng cưa. Lá phía trên đơn hay chia 3 thùy. Cây đực thường gày mảnh hơn cây cái. Hoa đực mọc thành chùy với 5 cánh đài và 5 nhị. Hoa cái mọc thành xim xen lẫn với lá bắc hình lá, đài hoa cái hình mo, bọc lấy bầu hình cầu, 2 vòi nhụy đính ở gốc bầu, hình chỉ, dài hơn bầu nhiều, 1 noãn ngược. Quả bế (gọi là chenevis) hình trứng dài 2,5-3,5mm đường kính 2,5-3mm, nhẵn, xám nhạt. Hạt có dầu.

Có tác giả phân cây gai dầu thành gai cho sợi thuộc loài Cannabis sativa var. vulgaris trồng ở những vùng ôn đới lấy sợi và hạt ép dầu, và gai cho nhựa (chanvre indien) thuộc loài Cannabis sativa L. var. indica trồng ở những vùng  khí hậu nóng.

B. PHÂN BỐ, THU HÁI VÀ CHẾ BIẾN

Nguồn gốc ở các nước miền trung châu á, bắt đầu được trồng ở ấn Độ và Trung Quốc để lấy sợi sau lan rộng đi nhiều nước vùng ôn đối các nước châu á, châu âu, (Liên Xô, Ba Lan, Rumani, Hungari, Séc, Slovakia, Pháp, Bỉ ...), châu Mỹ. Để lấy sợi người ta thu cây vào khi cây bắt đầu ra hoa. Ngâm cây vào nước trong vòng 10-20 ngày, phơi khô rồi tách sợi ra. Muốn thu quả (chenevis) chờ cho quả chín.

Gai cho nhựa thường trồng ở những vùng nóng và khô của ấn Độ, Iran, Apganistan, Ai Cập, nam châu Phi, Mêhicô. Ở đây người ta chỉ để những cây cái. Lấy ít hoa cây đực rũ mạnh trên những hoa cây cái để bảo đảm thụ phấn. Tại những nước này người ta thu những ngọn mang hoa và quả của cây cái. Tùy theo từng nước, người ta thu hái có hơi khác nhau và được những vị thuốc cũng mang tên khác nhau.

Ví dụ tại Ấn Độ người ta chia thành:

   Bhang gồm hỗn hợp những ngọn mang hoa đực và cái. Cứ dùng như vậy mà hút hay trộn với thuốc lá, thuốc phiện mà hút. Có khi được ngâm vào bơ và ăn dưới dạng nước canh, bánh ngọt cùng với một số vị thuốc khác.

   Ganjah gồm những ngọn mang hoa cái đã thụ phấn, dính đầy chất nhựa, cuộn thành cuộn hình thoi (round ganjah) hay khối dẹt (flat ganiah). Thường được nhân dân dùng hút trong những điếu đặc biệt.

   Chara gồm nhựa thu hoạch tại những khu vực trồng: người thu hoạch mặc áo da đi qua những cây trồng cho nhựa dính vào, hoặc người ta ngả cây đem về cắt lấy ngọn có hoa và nhựa rồi vê bằng tay. Loại này rất mạnh.

Tại Ai Cập và các nước Ả Rập người ta chế thành haschich gần giống chất ganjah, nhưng cuộn thành từng thỏi thường trộn thêm với mật ong, bơ, chất thơm khác và những lá cây họ Cà (Solanaceae).

Tại bắc châu Phi như ở Tuynidi người ta chế thành takrouri là ngọn cây cái mang hoa thái nhỏ, rây đều và gói thành gói, và chất kif được dùng ở Angiêri.

Tại Thổ Nhĩ Kỳ người ta chế dạng cao nước cô đặc gọi là hafioum thường trộn với những cây có chất thơm hay có tác dụng cường dương.

Tại Mêhicô và các bang miền nam nước Mỹ người ta hút thứ thuốc mang tên marihuana gồm ngọn cây trộn với thuốc lá.

Tại những vùng khí hậu mát lạnh ở các tỉnh miền núi nước ta như Lào Cai, Yên Bái, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh đồng bào dân tộc ít người thường trồng cây gai dầu chủ yếu để lấy sợi dệt loại vải dày và bền. Một số nơi thu quả về ép dầu. Việc sử dụng nhựa hay ngọn mang hoa cái để hút hầu như chưa thấy. Tuy  nhiên trong kháng chiến chống Pháp, chúng tôi có thấy một số hàng binh lê dương người châu Phi thường hái ngọn mang hoa của cây gai dầu này thái nhỏ phơi dùng hút như hút thuốc lá hoặc trộn thêm với thuốc lá để hút. Ở miền Nam (Đà Lạt) dùng với tên cần sa làm thuốc ma túy và nuôi lợn cho béo.

C. THÀNH PHẦN HÓA HỌC

Quả (chenevis) chứa 30% chất dầu có giá trị trong công nghiệp sơn vì bản thân dầu dưới tác dụng của không khí tạo thành màng rắn chắc bảo vệ gỗ và kim loại. Thành phần dầu chủ yếu gồm các glyxerit của những axit linoleic và  linomic. Trong khô dầu chứa 30% chất đạm, 10% chất béo dùng làm thức ăn gia súc. Trong chất đạm của khô dầu có chủ yếu chất glubulin mang tên edestin.

Ngọn mang hoa cái thường có 5-10% độ ẩm, 12-14% chất vô cơ (gồm chủ yếu lá oxalat canxi trong cây), ít tinh dầu với thành phần gồm những cacbua tecpenic, và một chất sesquitecpen mang tên cannaben; ngoài ra còn thấy cholin, trigonellin.

Hoạt chất của ngọn mang hoa cái là một chất nhựa (resin) với tỷ lệ thay đổi tùy theo cách chế biến thu hái và nguồn gốc địa lý. Theo Paris và du Merac 1947, Dehay 1961 và Herisset 1965 thì tỷ lệ nhựa trong những dược liệu của ấn Độ là 10-20% (chất chara thô chứa tới 30%) trong khi đó những ngọn thu ở những cây ở chây âu thường chỉ dưới 5% có khi chỉ 1-2%.

Nhựa này tan trong cồn cao độ, trong ête, clorofoc và đặc biệt hãn hữu trong ête dầu hỏa.

IMG

Thành phần hóa học của nhựa được tiến hành nghiên cứu từ cuối thế kỷ 19 nhưng mới đạt những tiến bộ vào năm 1940 nhờ những công trình nghiên cứu của Cahn, Told và cộng sự ở Anh về gai dầu của Ấn Độ và những công trình của Adams và cộng sự ở Mỹ về chất marihuana. Người ta đã chiết được những hợp chất không chứa nitơ có tính chất phenol. Cấu trúc cũng đã được xác định.

Đó là:

Cannabinol vào năm 1900 mới chiết được dưới dạng dầu, đến năm 1933 dưới dạng axetat kết tinh (Cahn, 1933). Bằng con đường tổng hợp người ta đã xác định được cấu trúc: với một nhân amyl-resorxinol và một nhân p-xymen.

Một hợp chất diphenol, Cannabidiol được Adams tách dưới dạng dinitribenzoat tinh thể (1940). Chất này có nhiều hơn trong gai dầu Mỹ, ít hơn trong gai dấu Ấn Độ.

Cả hai chất đều không có tác dụng gây tê mê của nhựa. Nhưng khi người ta tìm cách tổng hợp cannabinol thì người ta thu được chất tetrahydrocannabinol có những tác dụng đặc hiệu của haschich. Nhiều chất tương tự cũng đã được tổng hợp. Và có nhiều đồng phân của tetra-hydro-cannabinol khác nhau do năng suất quay cực và vị trí của nối kép trong nhân p-xymen. Người ta cho rằng trong nhựa thiên nhiên phải có một hỗn hợp đồng phân có tác dụng sinh lý.

Năm 1958, các nhà nghiên cứu Đức và Séc còn chiết được từ nhựa gai dầu châu Âu một chất mới gọi là axit cannabidiolic trong điều kiện chiết ở nhiệt độ thấp và trong áp lực giảm, vì chất này rất dễ bị khử cacboxy để cho cannabidiol.

Năm 1965, bằng sắc ký cột, người ta còn chiết được từ nhựa haschich chất cannabigerol. Ta có thể biểu thị sự liên quan giữa những thành phần hóa học trong nhựa gai dầu như trên.

D. TÁC DỤNG DƯỢC LÝ

Việc sử dụng nhựa gai dầu làm thuốc đã được biết từ rất lâu ở những nước phương đông như Ấn Độ, Trung Quốc, sau đó truyền sang Iran và các nước Ả Rập.

Các nước châu Âu chỉ mới biết đến nhựa gai dầu vào đầu thế kỷ 19.

Vị thuốc gây cho người dùng ban đầu có một cảm giác khoan khoái, dễ thở, thần kinh được kích thích, sau đó đến những ảo giác (mất khái niệm về thời gian, không gian, người như phân đôi). Con người trở nên rất nhạy cảm với tiếng ồn, với âm nhạc, và rất dễ sai khiến tới mức có thể sai đi gây những tội ác cũng làm. Vì vậy nhựa gai dầu thường được dùng ở một số nước phương đông để chuẩn bị cho chiến sĩ ra trận, chịu đựng những nhục hình. Nhưng giai đoạn kích thích và bột phát thường kèm buồn ngủ và đi tới hôn mê. Với liều cao hơn có thể dẫn đến động tác thiếu phối hợp, trạng thái ngây, một giấc ngủ giữ nguyên thế, có khi những cơn hoang tưởng giận dữ. Hô hấp chậm dần, mạch nhanh, miệng khô, mồ hôi đầm đìa, buồn nôn và nôn.

Việc sử dụng nhựa gai dầu được coi như một chứng nghiện chất độc nguy hiểm như nghiện thuốc phiện và cocain. Nhiều nước đã cấm trồng, sản xuất buôn bán và sử dụng nhựa gai dầu. Nhựa gai dầu nói ở đây được định nghĩa gồm ngọn có hoa và quả của cây gai dầu Cannabis sativa var. indica.

Tác dụng của nhựa gai dầu còn tùy thuộc vào bản lĩnh và trình độ văn hóa của người sử dụng. Nhưng thường dẫn đến thủ tiêu ý chí, suy nhược thể lực và tinh thần, và dẫn đến bệnh tinh thần.

Về những chất lấy riêng ra thì axit cannabidiolic không có tác dụng gây tê mê; các tác giả Tiệp Khắc chứng minh các chất này có tác dụng giảm đau và nhất là kháng sinh đối với một số vi khuẩn Gram dương. Điều sau này phù hợp với kinh nghiệm cổ truyền ở một số nước dùng nhựa gai dầu làm thuốc sát trùng và lên da.

Cannabidiol và cannabiol khá độc.

Người ta thấy rằng nhựa gai dầu để lâu sẽ bị giảm tác dụng. Và tác dụng giảm đau của nhựa gai dầu là kết quả của tác dụng chung của nhựa đối với vỏ não chứ không phải do một tác dụng tại chỗ.

E. CÔNG DỤNG VÀ LIỀU DÙNG

Với tên lanh mèo, lanh mán, cây gai dầu hiện nay chủ yếu được trồng ở một số vùng miền núi nước ta để lấy sợi. Một số ít nơi dùng quả và hạt để ép dầu, dùng chế sơn, khô dầu dùng làm thức ăn gia súc. Toàn quả còn dùng nuôi chim.

Việc sử dụng ngọn mang hoa và quả cây gai dầu cái để hút như ở một số nước khác ở châu Á và châu Phi cho đến nay hầu như chưa thấy ở nước ta. Nhưng chúng ta cũng nên biết rằng việc sử dụng nhựa gai dầu với mục đích  này rất nguy hiểm, gây nghiện độc đối với nhân dân, làm thủ tiêu ý chí, suy nhược thể lực và trí óc cho nên gần đây rất nhiều nước đã cấm không cho sử dụng nhựa gai dầu để hút hay để uống.

Năm 1961 tại Niuooc, ủy ban về chất ma túy thế giới đã ra nghị quyết cấm không được dùng nhựa gai dầu vào mục đích khác ngoài mục đích chữa bệnh, và kiểm tra chặt chẽ việc trồng và buôn bán chất này. Nghị quyết này có hiệu lực từ cuối năm 1964. Tuy nhiên chúng ta biết trên thế giới hiện nay vẫn còn hàng triệu người dùng hút và uống cho nên vẫn có những sự buôn bán lén lút chất ma túy này.

Về mục đích làm thuốc, nhựa gai dầu được dùng từ lâu đời làm thuốc bôi ngoài với tính chất sát trùng và giảm đau.

Trong y học hiện đại, nhựa gai dầu được dùng dưới dạng cồn cao và thuốc để uống trong làm thuốc giảm đau, dịu đau (nhất là trong trường hợp đau dạ dày, co giật trong uốn ván, hen suyễn, một số bệnh thần kinh), dùng ngoài để làm thuốc sát trùng, chữa bỏng. Tuy nhiên người ta thấy thuốc để lâu kém hiệu lực và tác dụng cũng không đồng nhất.

Liều dùng: Cồn 1/10 (chế bằng phép ngấm kiệt với cồn 90o), mỗi lần dùng  0,05g, trong 24 giờ tối đa 1g.

Cao rượu: Ngày uống 0,05g đến 0,10g.

Cao lỏng: Ngày uống 0,30g đến 0,60g.

Nhựa gai dầu: Ngày uống từ 0,03g đến 0,05g.

Chú ý:

Những thuốc chế từ nhựa gai dầu đều phải theo chế độ những thuốc độc gây nghiện.

Nguồn: Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tác giả: Giáo sư Tiến sĩ khoa học ĐỖ TẤT LỢI



Xin vui lòng ghi rõ nguồn http://www.dotatloi.com khi phát hành lại thông tin.


Tuyên bố miễn trừ trách nhiệm:
Thông tin trên www.dotatloi.com chỉ phục vụ nghiên cứu học tập và mở rộng kiến thức. Không sử dụng làm căn cứ để tiến hành chẩn trị trên lâm sàng. Thông tin trên www.dotatloi.com có thể được trích dẫn, thu thập từ các ấn phẩm, các trang tin điện tử liên quan trong nước và ngoài nước. Nếu phát sinh vấn đề bản quyền, kính đề nghị phản hồi cho chúng tôi.

Viết bình luận

Để thuận tiện cho việc đăng tải, xin vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.
Chúng tôi mong muốn nhận được những bình luận theo hướng mở rộng hoặc bổ sung thông tin liên quan đến bài viết.
Chúng tôi sẽ khóa những bình luận có ngôn từ mang tính kích động hoặc bất nhã.

focus Cây dền
03/02/2025 12:00 SA

- 木瓣樹 (木瓣树). Còn gọi là cây sai (Hà Bắc - Sơn Động), cây thối ruột, mảy sẳn săn (Thổ). Tên khoa học Xylopia vielane Pierre. Thuộc họ Na (Anonaceae).

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu
Tên vị thuốc Mô tả
Cây đa - 印度榕. Tên khoa học: Ficus elastica Roxb; Đa búp đỏ, bồ đề (đom pur): Ficus religiosa L.; Đa nhiều rễ: Ficus macrophylla; Đa tròn lá: Ficus benghalensis L.. Đều thuộc họ Dâu tằm (Moraceae).
Cay dạ cẩm - 花耳草. Còn gọi là cây loét mồm, đất lượt, đứt lướt, chạ khẩu cắm. Tên khoa học Oldelandia eapitellata Kuntze. Thuộc họ Cà phê (Rubiaceae). Ta dùng toàn cây hay chỉ dùng lá và ngọn non của nhiều loài dạ cẩm: Dạ cẩm thân tím nhiều lông và loài dạ cẩm thân xanh.
Cây đại - 雞蛋花 (鸡蛋花). Còn gọi là miến chi tử, kê đản tử, cây hoa đại, bông sứ, hoa sứ trắng, bông sứ đỏ, bông sứ ma, hoa săm pa (Lào). Tên khoa học Plumeria acutifolia Poir. (P. acuminata Roxb, P. obtusa Lour). Thuộc họ Trúc đào (Apocynaceae).
Cây dầu giun Còn có tên là cây rau muối dại, cây cỏ hôi, cây thanh hao dại, thổ kinh giới. Tên khoa học Chenopodium ambrosioides L. (Chenopodium anthelminticum A. Gray.). Thuộc họ Rau muối (Chenopodiaceae). Chú thích về tên: Tên cây dầu giun là tên mới đặt vào khoảng năm 1939-1940, vì cây này cho tinh dầu chữa giun. Có chữ dầu để phân biệt với cây sử quân tử có tên khác là cây giun. Tên thổ kinh giới là tên Trung Quốc giới thiệu. Cần biết để tránh nhầm lẫn.
Cây dền - 木瓣樹 (木瓣树). Còn gọi là cây sai (Hà Bắc - Sơn Động), cây thối ruột, mảy sẳn săn (Thổ). Tên khoa học Xylopia vielane Pierre. Thuộc họ Na (Anonaceae).
Cây diếp cá - 魚精草 (鱼腥草). Còn có tên là cây lá giấp, ngư tinh thảo. Tên khoa học Houttuynia cordata Thunb. Thuộc họ Lá giấp (Saururaceae).
Cây dừa cạn - 長春花 (长春花). Còn gọi là trường xuân, hoa hải đằng, bông dừa, dương giác, pervenche de Madagascar. Tên khoa học Catharanthus roseus (L.) G. Don; Vinca rosea L; Lochnera rosea Reich. Thuộc họ Trúc đào (Apocynaceae).
Cây dung - 珠仔樹 (珠仔树). Còn gọi là chè lang, chè dại, duối gia, chè dung. Tên khoa học Syplocos racemosa Roxb. Thuộc họ Dung (Symplocaceae).
Cây gai - 苧麻 (苎麻). Còn gọi là trữ ma (Trung Quốc). Tên khoa học Boehmeria nivea (L) Gand. (Urtica nivea L.). Người ta dùng củ gai (Radix Boehmeriae) là rễ phơi hay sấy khô của cây gai. Theo chữ Hán sợi gai nhỏ là thuyền sợi gai to là trữ.Cây gai vừa dùng làm thuốc vừa cho sợi cho nên gọi là trữ.
Cây hàm ếch - 三白草. Còn có tên là tam bạch thảo, đường biên ngẫu (Lĩnh nam thái dược lục). Tên khoa học Saururus sinensis Baill. (Saururus loureiri Decne). Thuộc họ Lá giấp (Saururaceae). Tên tam bạch (cây có 3 trắng) vì khi cây ra hoa thường có 3 lá bắc màu trắng.
Cây hoa cứt lợn - 勝紅薊 (胜红蓟). Còn có tên là cây hoa ngũ sắc, cây hoa ngũ vị, cỏ hôi. Tên khoa học Ageratumconyzoides L.. Thuộc họ Cúc Asteraceae(Compositae).
Cây hoa hòe - 槐花. Còn gọi là hòe mễ, hòe hoa mễ, hòe hoa. Tên khoa học Sophora japonica L. Thuộc họ Cánh bướm Fabaceae (Papilionaceae). Người ta dùng hoa hòe hay hòe hoa (Flos Sophorae japonicae) là hoa chưa nở phơi hay sấy khô của cây hòe. Nhiều khi người ta dùng cả quả hòe hay hòe giác (Fructus Sopharae japonicae).
Cây hoa phấn - 紫茉莉. Còn gọi là cây bông phấn, belle de nuit, la ngot, pea ro nghi (Camphuchia). Tên khoa học Mirabilis jalapa L (Jalapa congesta Moench, Nyctago hortensis Bot.). Thuộc họ Hoa giấy (Nyctaginaceae).
Cây hồng hoa - 紅花 (红花). Còn có tên là cây rum. Tên khoa học Carthamus tinctorius L.. Thuộc họ Cúc Asteraceae (Compositae). Người ta thường dùng hồng hoa (Flos Carthami) là hoa phơi hay sấy khô của cây hồng hoa (hoa màu hồng do đó có tên hồng hoa).
Cây hột mát - 腫莢豆 (肿荚豆). Còn gọi là cây xa, thàn mát. Tên khoa học Antheroporum pierrei Gagnep. Thuộc họ Cánh bướm Fabaceae (Papilionaceae).
Cây huyết dụ - 鐵樹 (铁树). Tên khoa học Cordyline terminalis Kunth (Dracaena terminalis Jacq.). Thuộc họ Hành tỏi (Liliaceae). Ta dùng lá của cây huyết dụ (Folium Cordyline).
Cây ké đầu ngựa - 蒼耳 (苍耳). Còn gọi là thương nhĩ (tên Trung Quốc), phắt ma (Thổ). Tên khoa học Xanthium strumarium L.. Thuộc họ Cúc Asteraceae (Compositae). Ta dùng quả ké đầu ngựa, hay toàn bộ phận trên mặt đất của cây ké đầu ngựa, phơi hay sấy khô. Ở Trung Quốc, gọi quả ké là thương nhĩ tử (Fructus Xanthii).
Cây keo giậu Còn có tên là cây bồ kết dại, cây muồng, cây táo nhân. Tên khoa học Leucaena glauca Benth. Thuộc họ Trinh nữ (Mimosaceae). Ta dùng hạt keo còn gọi là hạt muồng, hạt quả bồ kết dại, hạt quả táo nhân - Semen Leucaenae Glaucae.
ĐỐI TÁC - LIÊN KẾT
[ Lên đầu trang ]