Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu

ĐÔNG TRÙNG HẠ THẢO - 冬蟲夏草 (冬虫夏草)

Còn gọi là trùng thảo, hạ thảo đông trùng.

Tên khoa học Cordyceps sinrnsis (Berk) Sacc.

Thuộc bộ Nang khuẩn (Ascomycetes) họ Nhục tòa khuẩn (Hypocreaceae).

ĐÔNG TRÙNG HẠ THẢO, 冬蟲夏草, 冬虫夏草, trùng thảo, hạ thảo đông trùng, Cordyceps sinrnsis (Berk) Sacc., bộ Nang khuẩn, Ascomycetes, họ Nhục tòa khuẩn, Hypocreaceae

Đông trùng hạ thảo - Cordyceps sinrnsis

1. Toàn vị đông trùng hạ thảo; 2. Phần đầu nấm cắt ngang và phóng to nhìn rõ các tử nang xác;

3. Tử nang xác phóng to, nhìn rõ các nang hình sợi; 4. Nang phóng to, nhìn rõ các bào tử

Tên đông trùng hạ thảo vì vị thuốc này vào mùa đông là con sâu, mùa hạ lại thành cây cỏ. Sách cổ coi đông trùng hạ thảo bổ ngang nhân sâm.

Ở nước ta hiện đang dùng hai loại đông trùng hạ thảo.

1. Đông trùng hạ thảo hiện còn đang phải nhập của Trung quốc sẽ mô tả dưới đây.

2. Đông trùng hạ thảo của Việt Nam sẽ nói ở phần sau.

Ta cần chú ý để tránh nhầm lẫn.

A. MÔ TẢ ĐÔNG TRÙNG HẠ THẢO

Đông trùng hạ thảo của Trung Quốc (Cordyceps) là một giống nấm mọc ký sinh trên sâu non của một loại sâu thuộc họ sâu Cánh bướm. Nấm và sâu hợp sinh với nhau. Vào mùa đông, con sâu non nằm ở dưới dất, nấm phát triển vào toàn thân con sâu để hút chất trong con sâu làm cho con sâu chết. Đến mùa hạ, nấm sinh cơ chất (stroma) mọc chồi khỏi mặt đất, nhưng gốc vẫn dính liền vào đầu sâu, đào lấy tất cả xác sâu và nấm mà dùng.

Vị thuốc bao gồm cả nấm và sâu, hái vào tháng 6-7. Rửa sạch, phơi khô, phun rượu vào rồi phơi khô hẳn. Bó thành từng bó 10-15 con một. Ngang chỗ nấm, người ta buộc sợi chỉ đỏ trông rất đẹp.

Vị thuốc như vậy gồm có phần sâu non dài 2,5-3cm, đường kính 3-5mm, màu vàng nâu hay xám nâu. Tự đầu con sâu mọc ra một thân nấm hình trụ đặc biệt có khi 2 hay 3 con sâu. Thân nấm thường dài 3-6cm, đặc biệt có thể dài 11cm. Phía dưới thân nấm có đường kính 1,5-4mm, phía trên to phình ra, cuối cùng lại thon nhọn, cả phần này dài 10-45mm, đường kính 2,5-6mm. Nếu còn non thì đặc, nếu già thì thân rỗng. Dùng kính hiển vi, ta sẽ thấy phần phình to này có vỏ sần sùi, có những hạt nhỏ tức là tử nang xác nổi lên. Phần đầu thon nhọn không mang tử nang xác và dài từ 0,5-3,5mm.

Tử nang xác hình trứng hay hơi tròn, dài 380-550µ. Đường kính 140-240µ (1µ =  1/1.000mm). Trong tử nang xác có chứa các nang hình sợi có cuống ngắn dài 240-485µ, đường kính 12-15µ. Trong nang có nhiều nang bào tử có nhiều vách riêng  biệt dài 170-47µ- đường kính từ 5-5,5 hoặc 6µ.

Tại Trung Quốc, đông trùng hạ thảo thường gặp ở những rừng ẩm ướt các tỉnh Tứ Xuyên, Vân Nam, Tây Khang, Tây Tạng, nhiều nhất ở Tứ Xuyên và Tây Khang.

Qua sự phân bố ở Trung Quốc, chúng ta chú ý phát hiện tại số mố rừng ẩm ướt ở các tỉnh biên giới.

B. ĐÔNG TRÙNG HẠ THẢO VIỆT NAM

Hằng năm tại Thất Khê (Lạng Sơn) hay Hòa Bình (Hà Tây) nhân dân có bán với tên đông trùng hạ thảo một loại sâu khác, sống trong thân cây thuộc họ lúa Graminae.

Sâu này có tên khoa học Brihaspa atrostigmella thuộc họ sâu Cánh bướm (Leprdopterae). Nó sống trong thân cây chít (một loại lau) vẫn cho lá để gói bánh tro. Tên khoa học của cây chít là Thysanoloena maxima O. Kuntze họ lúa Poaceae (Gramineae). Người ta còn gọi là cây đót, cây le, cây cỏng.

Cây chít cao như cây bông lau, tháng 3-4 có bông vọt lên, cứng dài hơn bông lau, người ta thường cắt về làm chổi quét bụi bàn ghế hay chổi quét vôi. Vào các tháng 11-12 vào rừng thấy những cây chít nào cụt, không có búp thường có sâu ẩn trong thân. Cắt ngang thân từ chỗ cành đến ngọn dài 50-60cm. Đem về xé đôi thân sẽ thấy con sâu ở trong. Thực ra đó chỉ mới là nhộng của con sâu Brihaspa atrostigmella. Sâu này đẻ trứng ở vỏ cây, nhộng nở ra chui vào và sống trong thân cây qua mùa đông.

Nhộng màu trắng vàng, dài khoảng 35mm. Thả vào chậu nước muối để rửa cho sạch. Sau đó rang hay sấy cho khô. Tẩm mật ong rồi lại sấy khô. Cuối cùng ngâm sâu này vào rượu sẽ thấy các chất béo nổi lên như mỡ trong nước luộc gà.

C. THÀNH PHẦN HÓA HỌC CỦA ĐÔNG TRÙNG HẠ THẢO

Đông trùng hạ thảo Việt Nam chưa được nghiên cứu.

Trong đông trùng hạ thảo nhập ở Trung Quốc người ta đã lấy được chừng 7% một loại axit đặc biệt gọi là axit cocdixepic 3-4-5 tetraoxyhexahydrpbenzoic, có cấu tạo tương tự như axit quinic. Nhưng các chất khác và hoạt chất chưa  được biết.

Đông trùng hạ thảo chứa 25-32% protit. Khi thủy phân cho axit glutamic, prolin, histidin, valin và oxyvalin, acginin và alanin. Ngoài ra còn có 8,4% chất béo trong đó axit béo no chiếm 13%, axit không no chiếm 82,2% (axit linolic 31,69%, axit linilenic 68,31%) (theo Lưu Thọ Sơn và cộng sự - Trung dược nghiên cứu đề yếu 1963, 126).

Ngoài ra người ta còn chiết được axit cordycepic chứng minh là D - mannitol (theo Sprecher M. và cộng sự - J. Org. Chem. 1963, 28, 2490).

Từ Cordyceps militaris (L.) Link. nuôi dưỡng trong môi trường người ta chiết được cordycepin 3' deoxyadenosin C10H13O3N5.

D. TÁC DỤNG DƯỢC LÝ CỦA ĐÔNG TRÙNG HẠ THẢO

1. Đông trùng hạ thảo đã được Brewster và Aisberg nghiên cứu từ năm 1917 (J. Phamacologr. 10, 1917). Theo tác giả này thì tiêm mạch máu hoặc dưới da thuốc đông trùng hạ thảo vào thỏ hoặc chuột nhắt trắng thì thấy hiện tượng ức chế, liều lớn tăng hô hấp và mạch đập nhanh hơn rồi con vật quằn quại mà chết. Thuốc chế bằng rượu không có tác dụng gì đối với thỏ. 

2. Năm 1952, Trịnh Phi Vũ (Trung hoa y học tạp chí) và Trịnh Táo Kiệt (Thú ý  tạp chí) nghiên cứu thấy đông trùng hạ thảo có tác dụng ức chế đối với một số vi trùng.

3. Năm 1958 hai tác giả Trung Quốc là Trương Sỹ Thiện và Trương Bá Thạch có nghiên cứu kỹ tác dụng của đông trùng hạ thảo và đã đi đến một số kết luận sau đây (Dược học thông báo 5/1958):

   a) Nước sắc 1/10 đông trùng hạ thảo có tác dụng ức chế đối với tim cô lập và tại chỗ của ếch, cũng như đối với tim cô lập của thỏ. Tim đập chậm lại, nhưng sức bóp không tăng. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Trịnh Táo Kiệt, nhưng ông này cho rằng nếu lượng chất dầu béo trong đông trùng hạ thảo cao thì gây ức chế, ngược lại, nếu tỷ lệ dầu béo thấp thì lúc đầu có hiện tượng ức chế một thời gian rất ngắn rồi mới đến hiện tượng hưng phấn.

   Đối với tim cô lập của thỏ, thuốc đông trùng hạ thảo làm tăng rõ rệt lượng huyết của tim.

   Các kết quả trên phù hợp với kinh nghiệm cổ truyền của nhân dân nói rằng đông trùng hạ thảo chữa khỏi bệnh đau tim.

   b) Đối với huyết áp: Kết quả thí nghiệm trên chó gây mê cho thấy nếu tiêm tĩnh mạch với liều 0,1ml-0,5 ml hoặc 1ml/kg thể trọng đều thấy huyết áp hạ xuống rõ rệt, 10 phút sau huyết áp trở lại bình thường. Tuy nhiên cho uống hoặc tiêm vào bụng với liều 2ml/kg thể trọng thì không thấy ảnh hưởng đối với huyết áp. Do đó tác dụng đối với huyết áp chưa thể kết luận được.

   c) Đối với khí quản (ống phổi): Thí nghiệm trên phổi và khí quản của chuột bạch, thấy thuốc đông trùng hạ thảo làm dãn khí quản nếu phối hợp với hoạt chất của thượng thận thì tác dụng của hoạt chất thượng thận lại tăng lên rõ rệt.

   Kết quả thí nghiệm này phù hợp tới công dụng chữa ho, tiêu đờm, bảo vệ phổi của kinh nghiệm cổ truyền.

   d) Đối với mẩu ruột và tử cung cô lập: Tác dụng ức chế rõ rệt.

   e) Độc tính của thuốc: Độ độc của thuốc hết sức thấp. Với liều 5g/kg chuột bạch, chuột không có hiện tượng ngộ độc nào. Với liều 10-20g/kg thể trọng một phần chuột thí nghiệm bị chết, với liều 30-50g/kg thể trọng toàn số chuột thí nghiệm bị chết.

   Triệu chứng ngộ độc của chuột như sau: Sau khi tiêm thuốc 2 phút rưỡi, chuột không nhanh nhẹn, sau 4 phút hô hấp chậm và dài, thường từ 180 lần/phút giảm xuống 46 lần/phút; sau 6 phút rưỡi chân trước bị tê liệt có vẻ như muốn nhảy nhót, sau đó có hiện tượng co quắp, hô hấp bị ức chế rồi chết.

   Với liều nhẹ, con vật có trạng thái trấn tĩnh với những trình độ khác nhau, có con vật buồn ngủ và tình trạng này kéo dài hàng vài giờ.

E. CÔNG DỤNG VÀ LIỀU DÙNG

Đông trùng hạ thảo là một vị thuốc mới được ghi vào tài liệu thuốc đông y vào giữa thế kỷ 18 trong bộ Bản thảo cương mục thập di (1765).

Theo sách cổ ghi chép, đông trùng hạ thảo là một vị thuốc bổ, chữa thần kinh suy nhược, chữa ho, ho lao. Bổ tinh khí chữa đau lưng, bổ thận.

Liều dùng: Ngày uống 6-12g dùng với hình thức ngâm rượu uống.

Người ta cho rằng đông trùng hạ thảo ngâm rượu uống chữa chứng đau lưng, mỏi gối, tác dụng ngang với nhân sâm.

Theo tài liệu cổ: Đông trùng hạ thảo có vị ngọt, tính ôn; vào 2 kinh Phế và Thận. Có tác dụng ích phế, thận, bổ tinh tủy, cầm máu, hóa đờm, dùng chữa hư lao sinh ho, ho ra máu, liệt dương, lưng gối đau mỏi, di tinh.

Đông trùng hạ thảo Việt Nam mặc dầu khác đông trùng hạ thảo nhập từ Trung Quốc, nhưng nhân dân cũng dùng như đông trùng hạ thảo nhập. Ngoài ra, người ta còn xào nấu với trứng mà ăn cho bổ, hoặc có người mua đông trùng hạ thảo Việt Nam về để nuôi chim họa mi.

Đơn thuốc có đông trùng hạ thảo:

   1. Thuốc chữa người già suy nhược, viêm khí quản mãn tính: Đông trùng hạ thảo 10g, khoản đông hoa 6g, tang bạch bì 8g, cam thảo 3g, tiểu hồi hương 2g, nước 600ml. Sắc còn 200ml. Chia 3 lần uống trong ngày. Chữa bệnh suy nhược của người già yếu, viêm khí quản mãn tính.

   2. Thuốc bổ đông trùng hạ thảo: Đông trùng hạ thảo 15 con. Vịt già một con, bỏ lông ruột cho sạch. Bổ đôi đầu vịt, cho đông trùng hạ thảo vào. Lấy dây gai buộc kín lại. Cài đầu vào bụng vịt rồi thêm mắm muối hầm như thường lệ, đem cho người ốm mới khỏi thân thể có hư yếu ăn. Người ta cho rằng ăn một con vịt như vậy cũng như uống 40g nhân sâm.

Nguồn: Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tác giả: Giáo sư Tiến sĩ khoa học ĐỖ TẤT LỢI



Xin vui lòng ghi rõ nguồn http://www.dotatloi.com khi phát hành lại thông tin.


Tuyên bố miễn trừ trách nhiệm:
Thông tin trên www.dotatloi.com chỉ phục vụ nghiên cứu học tập và mở rộng kiến thức. Không sử dụng làm căn cứ để tiến hành chẩn trị trên lâm sàng. Thông tin trên www.dotatloi.com có thể được trích dẫn, thu thập từ các ấn phẩm, các trang tin điện tử liên quan trong nước và ngoài nước. Nếu phát sinh vấn đề bản quyền, kính đề nghị phản hồi cho chúng tôi.

Viết bình luận

Để thuận tiện cho việc đăng tải, xin vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.
Chúng tôi mong muốn nhận được những bình luận theo hướng mở rộng hoặc bổ sung thông tin liên quan đến bài viết.
Chúng tôi sẽ khóa những bình luận có ngôn từ mang tính kích động hoặc bất nhã.

focus Cây lá dứa
04/06/2025 09:08 CH

- 香露兜. Còn gọi là lá dứa thơm, cây cơm nếp. Tên khoa học là Pandanus amaryllifolia Roxb. (Panadanus odorus Ridl). Thuộc họ Dứa gai (Pandanaceae).

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu
Tên vị thuốc Mô tả
Mã đề - 車前. Còn gọi là mã đề thảo, xa tiền, nhả én, dứt (Thái), su ma (Thổ). Tên khoa học Plantago asiatica L. (Plantago major L. var. asiatica Decaisne). Thuộc họ Mã đề (Plantaginaceae). Cây mã đề cho các vị thuốc có tên sau đây: 1. Xa tiền tử: Semen plantaginis - là hạt phơi hay sấy khô. 2. Mã đề thảo: Herba plantaginis - là toàn cây trừ bỏ rễ phơi hay sấy khô. 3. Lá mã đề: Folium plantaginix - là lá tươi hay phơi hoặc sấy khô.
Ma hoàng - 麻黃. Còn gọi là thảo ma hoàng, xuyên ma hoàng sơn ma hoàng, mộc tặc ma hoàng, mộc ma hoàng, trung ma hoàng. Tên khoa học Ephedra sinica Stapf., Ephedra equisetina Bunge, Ephedra intermedia Schrenk et Mey. Thuộc họ Ma hoàng (Ephedraceae). Ma hoàng (Herba Ephedrae) là ngọn hay phần trên mặt đất của nhiều loài ma hoàng phơi hay sấy khô. Tên ma hoàng vì vị thuốc có vị ma (cay cay tê tê, không rõ rệt) màu vàng. Tên Ephedra do chữ Epi có nghĩa là trên, hedra có nghĩa là đất, ý nói là cây thuốc mọc trên đá; chữ sinica có nghĩa là cây nguồn gốc ở Trung Quốc; equisetina là một tặc ý nói có loài ma hoàng giống cây mộc tặc (cỏ tháp bút).
Mã thầy - 荸薺 (荸荠). Còn gọi là củ năn, bột tề. Tên khoa học Heleocharis plantaginea R. Br. Thuộc họ Cói (Cyperaceae).
Mã tiền - 馬錢 (马钱). Còn gọi là củ chi, sleng thom, sleng touch (Campuchia), kok toung ka (Lào), vomiquier fausse angusture, mắc sèn sứ (Thổ) co bên kho (Thái). Tên khoa học Strychnos nuxvomica L. Thuộc họ Mã tiền (Loganiaceae). Tên mã tiền dùng để chỉ nhiều cây khác nhau thuộc chi Strychnos cho những hạt giống như chiếc khuy áo lớn, và có chứa những ancaloit có tác dụng mạnh chủ yếu là strycnin và bruxin. Có cây là cây đứng, có cây là dây leo. Nhiều cây leo chưa được xác định tên chắc chắn, thường chỉ mới tạm xác định là Strychnos sp. Có khi cùng một loài nhưng nếu khai thác hạt người ta gọi là cây mã tiền, nếu khai thác vỏ người ta lại gọi là cây hoàng nàn. Tên Strychnos do chữ Hy Lạp có nghĩa là những cây có độc, nux có nghĩa là quả cứng, vomica nghĩa là gây nôn, ý nói Strychnos nuxvomica là một cây có độc, quả cứng gây nôn.
Mắc kẹn - 七葉樹 (七叶树). Còn gọi là bàm bàm, ma keyeng, may kho, marronier. Tên khoa học Aesculus sinenisis Bunge. Thuộc họ Bồ Hòn (Sapindaceae).
Mắc nưa - 柿油樹. Còn gọi là mặc nưa, mac leua (Cămpuchia). Tên khoa học Diospyros mollis Griff. Thuộc họ Thị (Ebenaceae).
Mạch ba góc - 蕎麥 (荞麦). Còn gọi là tam giác mạch, lúa mạch đen, kiều mạch, sèo (Lào Cai, Yên Bái). Tên khoa học Fagopyrum esculentum Moench. (Fagopyrum sagittatum Cilib). Thuộc họ Rau răm (Polygonaceae). Ta có thể dùng toàn cây nhưng chủ yếu là lá và hoa của mạch ba góc để làm nguyên liệu chiết rutin.
Mạch môn đông - 麥門冬. Còn có tên là mạch đông, cây lan tiên. Tên khoa học Ophiopogon japonicus Wall. Thuộc họ Hành tỏi (Liliaceae). Người ta dùng rễ củ phơi hay sấy khô (Radix Ophiopogoni) của cây mạch môn đông. Vì lá giống lá lúa mạch, về mùa đông lá vẫn xanh tươi nên gọi là mạch đông.
Mạch nha - 麥芽. Tên khoa học Maltum. Mạch nha chính thức là hạt lúa mạch Hordeum sativum Jess. var. vulgare Hack hoặc một loài Hordeum khác thuộc họ Lúa Poaceae (Gramineae) cho mọc mầm, rồi sấy khô ở nhiệt độ dưới 60 độ. Ở Việt Nam ta vì chưa có lúa mạch, vẫn dùng hạt thóc tẻ (thóc chiêm hay thóc mùa đều được) Oryza sativa L. var. utilissima cùng họ để ngâm cho nẩy mầm rồi phơi khô, gọi là cốc nha. Muốn có thóc nẩy mầm, chỉ cần đãi thóc sạch đất cát, ngâm nước cho ẩm, sau đó ủ kín, thỉnh thoảng tưới nước để giữ ẩm đều, sau vài ngày hạt thóc nảy mầm, khi nào một số mầm bắt đầu xanh thì lấy ra phơi nắng cho khô, để nguyên hoặc tán nhỏ, sãy hết trấu mà dùng.
Mai mực - 海螵鞘. Còn gọi là hải phiêu tiêu, mai cá mực, ô tặc cốt. Tên khoa học Sepia esculenta Hoyle, Sepiaandreana Steen-Strup. Thuộc họ Cá mực (Sepiidae). Ô tặc cốt - Os Sepiae là mai rửa sạch, phơi khô của con mực nang hay mực ván (Seppiaesculenta Hoyle) hoặc của con mực ống, mực cơm (Sepiidae) nhưng chủ yếu là mực nang hay mực ván vì mực cơm hay mực ống có mai nhỏ. Tên ô tặc vì theo cách sách cổ, con cá mực thích ăn thịt chim, thường giả chết nổi trên mặt nước, chim tưởng là xác chết, bay sà xuống để mổ, bị nó lôi xuống nước ăn thịt, ăn thịt nhiều quạ do đó thành tên vì ô là quạ, tặc là giặc, cốt là xương; ý nói xương của giặc đối với quạ. Tên hải phiêu tiêu vì vị thuốc giống tổ con bọ ngựa mà lại gặp ở ngoài bể (phiêu tiêu là tổ bọ ngựa).
Mâm xôi - 粗葉懸鉤子 (粗叶悬钩子). Còn gọi là đùm đũm. Tên khoa học Rubus alceaefolius Poir. (Rubus fimbriifeus Focke). Thuộc họ Hoa hồng (Rosaceae).
Màn kinh tử - 蔓荊子. Còn gọi là kinh tử, vạn kim tử, quan âm, thuốc kinh, thuốc ôn, đẹn ba lá. Tên khoa học Vitex trifoolia L. Thuộc họ Cỏ roi ngựa (Verbenaceae). Màn kinh tử (Fructus Viticis) là quả chín phơi hay sấy khô của cây quan âm hay cây màn kinh, còn gọi là cây thuốc ôn. Màn là mọc lan ra, kinh là gai. Thứ cây này mọc lan ra mặt đất, nên gọi tên như vậy.
Mần tưới - 澤蘭 (泽兰). Còn gọi là hương thảo, lan thảo, Ayapana du Tonkin. Tên khoa học Eupatorium staechadosmun Hance. Thuộc họ Cúc Asteraceae (Compositae).
Măng cụt - 山竺、山竹子. Còn gọi là sơn trúc tử, mangoustanier. Tên khoa học Garcinia mangostana L. (Mangostana garcinia Gaertn.). Thuộc họ Bứa Clusiaceae (Guttferae). Tuy mang tên sơn trúc tử tại Trung Quốc, nhưng Trung Quốc không có cây này, vẫn phải nhập từ nước ngoài vào.
Màng tang - 澄茄子. Còn gọi là tất trừng già. Tên khoa học Litsea cubeba (Lour.) Pers. Thuộc họ Long não (Lauraceae).
Mang tiêu - 芒硝. Còn gọi là phác tiêu, huyền minh phấn. Tên khoa học Mirabilita, Natrium Sulfuricum, Sal Glauberis. Mang tiêu (Natrium Sulfuricum, Sal Glauberis) là muối natri sunfat thiên nhiên tinh chế mà thành. Huyền minh phấn (Natrium Sulfuricum exciccatum) còn gọi là nguyên minh phấn, hay phong hóa tiêu là mang tiêu khử hết nước.
Mật động vật (đởm) Đông y và Tây y đều dùng mật động vật làm thuốc, nhưng Tây y chỉ hay dùng mật lợn, mật bò. Còn Đông y dùng mật của nhiều loài như mật gấu, mật dê, mật lợn, mật bò, mật trăn, mật rắn, mật gà, mật cá chép, .v.v.
Mật gấu - 熊膽 (熊胆). Còn gọi là hùng đởm. Tên khoa học Fel Ursi. Thuộc họ Gấu (Ursidae). Mật gấu (Fel Ursi) là túi mật phơi hay sấy khô của nhiều loài gấu Ursus sp. Ở Việt Nam, thường là loài gấu ngựa Selenarctos thibetanus G. Cuvier. có khoang như chữ V trắng ở ngực. Đôi khi có loài gấu chó hay gấu đen, gấu xám (hiếm hơn) Ursus arctos lisiotus Gray.
ĐỐI TÁC - LIÊN KẾT
[ Lên đầu trang ]