Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu

ĐỒI MỒI - 玳瑁

Còn gọi là đại mạo, văn giáp.

Tên khoa học Eretmochelys imbricata L.

Thuộc họ Rùa biển (Chelonidae).

ĐỒI MỒI, 玳瑁, đại mạo, văn giáp, Eretmochelys imbricata L., họ Rùa biển, Chelonidae

Đồi mồi - Eretmochelys imbricata

Con đồi mồi cho ta vị thuốc gọi là đại mạo (Carapax éretmochelyti) là vảy của con đồi mồi phơi hay sấy khô.

A. MÔ TẢ CON VẬT

Đồi mồi là một loài rùa biển khá lớn, đường kính thân từ 60-80cm, trên lưng phủ những vảy màu hung nâu điểm thêm những đốm vàng óng ánh, bên ngoài trơn bóng, tất cả 13 vảy chính 25 vảy ở dìa. Hàm trên quắp cong trùm lên hàm dưới, dìa hàm có răng nhỏ, bốn chân biến đổi thành bốn vây giống như hình cái bơi chèo, ngón chân ẩn sâu trong vây và không có vuốt. Chân trước lớn hơn chân sau. Con già có vảy dầy, màu tươi sáng, con non vảy mỏng màu xám tro.

Thức ăn của đồi mồi là tôm cá và rong biển. Đến mùa sinh sản (khoảng tháng 3-4) đồi mồi đực và đồi mồi cái giao hợp ở tầng mặt nước biển, sau đó ban đêm con cái lên bãi cát tìm ổ đẻ ở những nơi kín đáo vắng người qua lại và thường xuyên có nước triều ngập khoảng vài giờ trong một ngày.

Đồi mồi thường hay tìm đến các bãi đã đẻ cũ. Khi đã tìm được chỗ rồi, đồi mồi dùng cái vây (chân) đào một hố sâu khoảng 50cm làm ổ, rồi đẻ trứng vào đó. Đẻ xong đồi mồi mẹ lấy cát phủ lên trên.

Mỗi vụ đẻ, đồi mồi đẻ làm ba đợt: Đợt 1: 60-80 trứng; đợt 2: 50-60 trứng; đợt 3: 45-60 trứng. Trứng ở trong ổ được sưởi nóng bằng nhiệt lượng mặt trời, sau chừng một tháng thì nở thành đồi mồi con. Lúc này đồi mồi có đường kính thân khoảng 4-5cm, chúng bỏ ổ trên cạn và bò xuống dưới biển.

Khoảng 6 năm sau đồi mồi có thể bắt đầu sinh sản được.

B. PHÂN BỐ, THU BẮT VÀ CHẾ BIẾN

Đồi mồi sống chủ yếu ở những vùng biển ấm nhiệt đới và gần nhiệt đới.

Ở nước ta đồi mồi có cả ở miền Bắc và miền Nam, nhưng miền Nam nhiều hơn. Còn thấy ở miền biển Trung Quốc (Đài Loan, Quảng Đông) Nhật Bản, và Ấn Độ Dương.

Tại nhiều nơi (Hà Tiên, Phú Quốc, Cát Bà) người ta còn tổ chức nuôi đồi mồi để lấy thịt và trứng ăn, ngoài ra còn bóc lấy vảy dùng làm đồ mỹ nghệ và làm thuốc.

Một con đồi mồi có thể cho tới 5kg vảy: Muốn lấy vảy người ta ngâm đồi mồi vào nước sôi, tức thì vảy tự tuốt ra. Vảy dài chừng 10-30cm, dày khoảng 0,15mm. Vảy màu hung nâu đốm vàng và dày, thuộc loại quí nhất; thứ màu đen, mỏng kém giá trị hơn.

Hiện nay vảy đồi mồi ngày càng hiếm, người ta đã làm giả vảy đồi mồi bằng nhựa tổng hợp, nhưng nhựa có màu sắc và độ bền kém xa vảy thật.

Để có đồi mồi người ta thường rình bắt chúng vào ban đêm hoặc đánh lưới, hoặc săn đuổi chúng ở dưới nước rồi dùng xiên đâm. Ở Ấn Độ lại có tập quán "câu" đồi mồi bằng cá ép. Cá ép là một loại cá biển có giác lưng bám được rất chắc. Chúng có tập tính thích sống bám trên lưng đồi mồi. Lợi dụng đặc điểm này, người ta buộc cá ép vào đầu một dây câu rồi thả xuống biển. Cá ép bơi đi tìm đồi mồi rồi dùng giác lưng bám chặt vào đồi mồi. Lúc đó chỉ việc kéo cá ép lên là được cả đồi mồi.

Trong mỹ nghệ người ta nhúng vảy vào nước sôi cho mềm rồi gọt, cắt, mài và uốn cong thành những đồ dùng khác nhau như lược, dây đồng hồ v.v...

Làm thuốc người ta đẽo thành từng lát mỏng rồi sắc uống hay tán bột mà uống hay làm thành viên mà uống.

C. THÀNH PHẦN HÓA HỌC

Chưa thấy tài liệu nghiên cứu.

D. CÔNG DỤNG VÀ LIỀU DÙNG

Vị thuốc này lần đầu tiên thấy được ghi trong "Khai bảo bản thảo" (vào khoảng  năm 974 Dương lịch).

Theo tài liệu cổ thì đại mạo (đồi mồi) có vị ngọt, tính hàn; vào 2 kinh Tâm và Can. Có tác dụng thanh nhiệt, giải độc. Dùng chữa bệnh nhiệt, mê sảng, kinh giản, ung nhọt, sưng tấy, nốt đậu hãm đen.

Hiện nay đồi mồi thường chỉ thấy dùng trong mỹ nghệ làm đồ trang sức (lược, gọng kính, hộp...) nhưng một số nơi dùng đồi mồi để chữa sốt, tiêu ung nhọt, phá tích huyết, trấn tĩnh tinh thần, sốt quá nói mê sảng.

Mỗi ngày dùng từ 4 đến 8g dưới dạng thuốc sắc hay thuốc bột.

Theo tài liệu cổ, những người không phải chứng thực nhiệt không dùng được.

Nguồn: Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tác giả: Giáo sư Tiến sĩ khoa học ĐỖ TẤT LỢI



Xin vui lòng ghi rõ nguồn http://www.dotatloi.com khi phát hành lại thông tin.


Tuyên bố miễn trừ trách nhiệm:
Thông tin trên www.dotatloi.com chỉ phục vụ nghiên cứu học tập và mở rộng kiến thức. Không sử dụng làm căn cứ để tiến hành chẩn trị trên lâm sàng. Thông tin trên www.dotatloi.com có thể được trích dẫn, thu thập từ các ấn phẩm, các trang tin điện tử liên quan trong nước và ngoài nước. Nếu phát sinh vấn đề bản quyền, kính đề nghị phản hồi cho chúng tôi.

Viết bình luận

Để thuận tiện cho việc đăng tải, xin vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.
Chúng tôi mong muốn nhận được những bình luận theo hướng mở rộng hoặc bổ sung thông tin liên quan đến bài viết.
Chúng tôi sẽ khóa những bình luận có ngôn từ mang tính kích động hoặc bất nhã.

Thạch tín
07/07/2025 09:15 CH

- 信石. Còn gọi là tín thạch, nhân ngôn, phê thạch, hồng phê, bạch phê. Tên khoa học Arsennicum. Thạch tín còn gọi chệch là nhân ngôn vì chữ tín gồm một bên chữ nhân, một bên chữ ngôn. Thường người ta dùng chữ thạch tín để chỉ chất As2O3 thiên nhiên, thường c...

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu
Tên vị thuốc Mô tả
Mật ong - 蜂蜜. Còn gọi là bách hoa tinh, bách hoa cao, phong đường, phong mật. Tên khoa học mel.
Mặt quỷ - 羊角藤. Còn gọi là đơn mặt quỷ, dây đất, nhầu đó, cây ganh, khua mak mahpa (Lào). Tên khoa học Morinda umbellata L. (Morinda scandens Roxb., Stigmanthus cymosus Lour). Thuộc họ Cà phê (Rubiaceae).
Máu chó - 小葉紅光樹 (小叶红光树). Còn gọi là muscadier à suif. Tên khoa học Knema corticosa Lour. (Knema bicolor Raf, Myristica corticosa Hook. f. et Thoms). Thuộc họ Nhục đậu khấu (Myristicaceae). Tên là máu chó vì khi chặt cây, chất nhựa chảy ra có màu đỏ giống như máu.
Mẫu đơn bì - 牡丹皮. Còn gọi là đơn bì, phấn đơn bì, hoa vương, mộc thược dược, thiên hương quốc sắc, phú quý hoa. Tên khoa học Paeonia suffruticosa Andr. (Paeonia arborea Donn, Paeonia moutan Sims.). Thuộc họ Mao lương (Ranunculaceae). Mẫu đơn bì (Cortex Paeoniae suffruticosae hay Cortex Moutan) là vỏ rễ phơi hay sấy khô của cây mẫu đơn. Đơn là đỏ, bì là vỏ, da. Vị thuốc là vỏ màu đỏ.
Mẫu lệ - 牡蠣. Còn gọi là vỏ hầu, vỏ hà, hầu cồn, hầu cửa sông, hà sông. Tên khoa học Ostrea sp. Thuộc họ Mẫu lệ (Ostridae). Mẫu lệ (Concha Ostreae), là vỏ phơi khô của nhiều loại hầu hay hà như hầu cửa sông (còn gọi là hầu cồn, hà sông), Ostrea rivularis Gould hầu ve, hầu đá, hầu lăng v.v... Mẫu là đực, lệ là giống sò to; vì người xưa cho rằng giống sò này chỉ có đực.
Me - 酸角. Còn gọi là cây me, ampil, khua me (Campuchia), mak kham (Lào). Tên khoa học Tamarindus indica L. Thuộc họ Vang (Caesalpiniaceae).
Mía - 甘蔗. Còn gọi là cam giá. Tên khoa học Saccharum offcinarum L. Thuộc họ Lúa Poaceae (Gramineae). Saccharum do chữ Ấn Độ, sakhara có nghĩa là đường; cam giá vì "cam" là ngọt, "giá" là gậy, cây trông giống cái gậy, có vị ngọt.
Mía dò - 樟柳頭 (樟柳头). Còn gọi là tậu chó (Lạng Sơn), đọt đắng, đọt hoàng, cát lồi, củ chóc. Tên khoa học Costus speciosus Smith, (Costus loureiri Horan., Amomum hirsutum Lamk., Amomum arboreum Lour.). Thuộc họ Gừng (Zingiberaceae).
Miết giáp - 鱉甲 (鳖甲). Còn gọi là mai con ba ba, thủy ngư xác, giáp ngư, miết xác. Tên khoa học Carapax Amydae.
Mít - 波羅蜜 (波罗蜜). Còn gọi là mac mi, may mi (Lào), khnor (Cămpuchia). Tên khoa học Artocarpus integrifolia L.f. Thuộc họ Dâu tằm (Moraceae).
- 杏. Còn có tên là ô mai, hạnh, khổ hạnh nhân, abricotier (Pháp), má pheng (Thái), mai. Tên khoa học Prunus armenniaca L. (Armenniaca vulgarris Lamk). Thuộc họ Hoa hồng (Rosaceae). Cây mơ cho ta những vị thuốc sau đây: (1) Khổ hạnh nhân (Semen Armeniaca amarae) là hạt khô của cây mơ; (2) Nước cất hạt mơ Aqua Armeniniacae chế từ hạt mơ; (3) Ô mai (Fructus Armeniacae praeparatus) là quả mơ chế và phơi hay sấy khô; (4) Dầu hạnh nhân (Oleum Armeniacae) dầu ép từ hạt mơ.
Mơ tam thể - 絨毛雞矢藤 (绒毛鸡矢藤). Còn có tên khác là dây mơ lông, dây mơ tròn, thối địt, ngưu bì đống (tên Trung Quốc). Tên khoa học Paederia tomentosa L. Thuộc họ Cà phê (Rubiaceae). Ta dùng lá cây mơ tam thể.
Mộc hoa trắng - 止瀉木 (止泻木). Còn gọi là cây sừng trâu, cây mức lá to, thừng mực to lá, mức hoa trắng, mộc vài (Thổ), míc lông. Tên khoa học Holarrhena antidysenteria Wall (Echites antidysenterica Roxb, Wrightia antidysenterica Grah.). Thuộc họ Trúc đào (Apocynaceae). Ta dùng hạt và vỏ cây mộc hoa trắng.
Mộc hương - 木香. Trên thị trường có nhiều loại mộc hương, nhưng sau đây là 2 vị chính: (1) Quảng mộc hương còn gọi là vân mộc hương (Radix Saussureae lappae) là rễ phơi hay sấy khô của cây vân mộc hương (Saussurealappa lappa Clarke) thuộc họ Cúc (Compositae). (2) Thổ mộc hương còn gọi là hoàng hoa thái (Radix Helenii) là rễ phơi hay sấy khô của cây thổ mộc hương (Inula helenium L.) cũng thuộc họ Cúc (Composiae). Ngoài ra còn một số cây khác cũng cho vị mộc hương cùng thuộc họ Cúc như vị xuyên mộc hương mà có tác giả xác định là Inula racemosa Hook. f., nhưng có tác giả lại xác định là Jurinea aff. souliel Franch.
Móc mèo núi - 大托葉雲實 (大托叶云实). Còn gọi là vuốt hùm, bonduc, cni- quier, pois - quenique, yeux de chat. Tên khoa học Caealpinia bon du-cella Flem. Thuộc họ Vang (Caesalpinceae).
Mộc nhĩ - 木耳. Còn gọi là nấm tai mèo. Tên khoa học Auricularia polytricha Sacc. Thuộc họ Mộc nhĩ (Auriculariaceae).
Mộc qua - 木瓜. Tên khoa học Chaenomeles lagenaria (Lois.) Koidz (Cydonia lagenaria Lois.). Thuộc họ Hoa hồng (Rosaceae). Mộc qua (Fructus Chaenomelis lagenariae) là quả chín phơi hay sấy khô của cây mộc qua (Chaenomeles lagenaria).
Mộc tặc - 木贼. Còn gọi là tiết cốt thảo, mộc tặc thảo, bút đầu thái, cỏ tháp bút. Tên khoa học Equisetum arvense L. Thuộc họ Mộc tặc (Equisetaceae). Mộc tặc (Herba Equiseti arvensis) là toàn cây mộc tặc phơi khô. Vì cây có đốt lại ráp, dùng để đánh gỗ cho nhẵn, do đó có tên là mộc tặc ("mộc" là gỗ, "tặc" là giặc, giặc đối với gỗ).
ĐỐI TÁC - LIÊN KẾT
[ Lên đầu trang ]