Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu

DÂY THUỐC CÁ - 毛魚藤 (毛鱼藤)

Còn gọi là dây duốc cá, dây mật, dây cóc, dây cát, lầu tín, tuba root (Anh), derris (Pháp), touba.

Tên khoa học Derris elliptica Benth., Derris tonkinensis Gagnep.

Thuộc họ Cánh bướm Fabaceae (Papilionaceae).

DÂY THUỐC CÁ, 毛魚藤, 毛鱼藤, dây duốc cá, dây mật, dây cóc, dây cát, lầu tín, tuba root, derris, touba, Derris elliptica Benth., Derris tonkinensis Gagnep, họ Cánh bướm, Fabaceae, Papilionaceae

Dây thuốc cá - Derris elliptica

Dây duốc cá là những cây cho rễ dùng đánh bả cá. Vì những cây này chỉ độc đối với sâu bọ và động vật máu lạnh, không độc đối với người và súc vật nuôi trong nhà cho nên còn được dùng trong nông nghiệp để diệt trừ sâu bọ. Cây có ở Việt Nam.

A. MÔ TẢ CÂY

Dây thuốc cá là một loại dây leo khỏe thân dài 7-10m, lá kép gồm 9-13 lá chét, mọc so le, dài 25-35cm, lá chét lúc đầu mỏng, sau dai dày, hình mác, đầu nhọn, phía dưới tròn. Hoa nhỏ, trắng hoặc hồng. Quả loại quả đậu, dẹt, dài 4-8cm.

B. PHÂN BỐ, THU HÁI VÀ CHẾ BIẾN

Nguồn gốc và vốn mọc hoang dại tại các nước Malaixia, Ấn Độ, Inđônêxia, Việt Nam, được trồng ở những nước nói trên và một số nước khác ở châu Phi (Côngô  ...).

Trồng dây thuốc cá bằng dâm cành, mẩu rễ cành dài 0,4-0,5m, trồng cách nhau 1m. Sau hai năm bắt đầu thu hoạch. Phải thu hoạch hết các rễ nhỏ, vì rễ càng nhỏ, lượng hoạt chất càng cao. Hoạt chất cao nhất vào các tháng thứ 23- 27. Cây chịu ánh sáng mạnh, nhưng ưa nơi mát hơn. Vì vậy ở miền Nam Việt Nam nước ta người ta hay trồng xen giữa các cây cao su, cây dừa. Nhiệt độ cần thiết 27-28o. Đất bón vôi cho năng suất rễ cao hơn.

Ở Malixia, sau 25 tháng mỗi ha cho hơn 3 tấn rễ, trung bình năng suất là hơn 1,3 tấn.

Trước đây ở  miền Nam Việt Nam thuốc cá được trồng nhiều ở Cà Mau, Bạc Liêu, Trà Vinh, Phú Quốc. Năm 1938 đã xuất cảng được 22 tấn rễ.

Trên thị trường rễ thuốc cá dài ngắn không đều, đường kính thường trung bình 1cm, cong queo, mặt ngoài xám nâu, đến nâu đỏ nhạt, với những đường nhỏ chạy dọc. Vỏ dày dính chắc vào gỗ màu nâu hồng, bẻ rất nhiều xơ, vị hơi ngọt, nhầy, sau đó nóng và hắc. Giã ngâm vào nước, nước sẽ có màu vàng đục và mùi đặc biệt; khác với rễ cóc kèn (xem ở sau) cho dung dịch trong.

C. THÀNH PHẦN HÓA HỌC

Rễ dây thuốc cá chứa 10-12% nước, 2-3% chất vô cơ, rất nhiều gluxit (đường, tinh bột), tanin, chất nhựa.

IMG

Hoạt chất chính là rotenon (hay tubotoxin, derrin) được Nagai chiết ra từ 1902. Tên rotenon do từ chữ roten là tên Nhật Bản của cây dây thuốc cá.

Công  thức thô C23H22O6 công thức khai triển được Butenandt xác định từ năm 1928 với 5 vòng: 2 vòng benzen (A) và (D), một vòng pyran (B) 1 vòng pyron (C) và 1 vòng furan (E), ngoài ra còn 2 nhóm metoxy.

Hiện nay người ta xếp rotenon vào nhóm izoflavon (các vòng D, C, và A có gạch chéo) - Rotenon là những tinh  thể hình lăng Rotenon nhân isoflavon (gạch dọc) trụ, không màu, tả tuyền, hầu như không tan trong nước 1/1000.000, hơi tan trong cồn và ête, rất tan trong axeton, benzen và clorofoc (73%).

Những dung dịch rotenon trong dung môi hữu cơ khi ra ánh sáng chuyển màu vàng rồi đỏ để thành chất dehydrorotenon vững bền và có độ độc vững bền.

Trong môi trường kiềm, dung dịch không vững bền.

Để xác định sự có mặt của rotenon người ta dùng những phản ứng sau đây:

   Phản ứng Durham, Howard, Jones và Smith 1933 - đun 0,05g bột rễ duốc cá với 5ml clorofoc, lọc, phần lọc được cô khi trên kính đồng hồ, thêm 2 giọt axit sunfuric đặc sẽ xuất hiện màu vàng cam rất rõ sau ngả màu nâu và tím khi  thêm 1 hạt nitrit natri, phản ứng nhạy tới 1/10 mg.

   Phản ứng Jones và Smith: dung dịch 0,1% trong axeton thêm axit nitric rồi nước và kiềm hóa bằng amoniac sẽ xuất hiện màu xanh tím mạnh rồi mất.

Hoạt chất khác gần giống rotenon deguelin 3-8% (do chiết lần đầu tiên từ cây Deguelia cùng họ Cánh bướm): Tinh thể hình kim màu lục nhạt, chảy ở 170o, đồng phân của rotenon với hai vòng dihydroxybenzopyran, tephrosin, tinh thể không màu chảy ở 198o (tên do chiết lần đầu tiên ở cây Tephrosia cùng họ Cánh bướm), toxicarol và sumatrol cùng có những hydroxyphenol. Toxicarol có tinh thể hình lục lăng màu vàng lục, chảy ở 219o.

Hàm lượng rotenon trong duốc cá thay đổi tùy từng loại từ 4-12%, thông thường 5-8%, có thứ hoang dại lên tới 13%. Nhưng độ độc không chỉ do rotenon, mà còn tỷ lệ với lượng cao của ête của rễ. Thường một loại rễ chứa 4-5% rotenon cho chừng 16-22% cao ête

Thứ tự độ độc của các chất như sau: Rotenon 400 lần mạnh hơn deguelin, deguelin 40 lần hơn tephrosin, tephrosin gấp 10 lần toxicarol.

Định lượng rotenon trong rễ duốc cá (phương pháp do A. F. NOR. Pháp quy định). Sau khi làm những phản ứng định tính nói trên, dùng clorofoc để chiết bột rễ duốc cá, ngâm trong 24 giờ và lắc trong 4 giờ. Bốc hơi dung dịch. Cặn còn lại hòa vào dung dịch tetraclorua cacbon no rotenon đun sôi. Để nguội, phức chất rotenon - Cl4C tinh thể tách ra, lọc qua phễu lọc thủy tinh xốp đã cân bì, dùng tetraclorua cacbon no rotenon để rửa tinh thể, sấy ở 35oC rồi cân. Lượng rotenon trong phức chất được xác định bằng kết tinh lại trong cồn 95o đun sôi: Rotenon tinh khiết sẽ kết tinh khi dung dịch để nguội.

Ngoài phương pháp định lượng nói trên, còn có những phương pháp so màu dựa vào màu tím nhạt do tác dụng của axit sunfuric và nirit natri, cho kết quả cao hơn phương pháp trên do toàn bộ các chất tương tự rotenon cũng cho màu.

D. TÁC DỤNG DƯỢC LÝ

Từ lâu đời, dây duốc cá được nhân dân vùng Đông Nam châu Á dùng duốc cá: Nghiền rễ với nước với liều 1 phần triệu cá bị say và người ta bắt cá dễ dàng. Với liều cao hơn, cá có thể bị chết.

Tính chất trừ sâu của rễ duốc cá cũng được nhân dân Trung Quốc và Ấn Độ biết từ lâu. Mãi đến khoảng những năm 1930 tính chất trừ sâu này mới được nghiên cứu ở châu Âu và châu Mỹ.

Độc tính của rotenon thể hiện trên động vật máu lạnh do đường uống hay do tiếp xúc với nồng độ 1 x 10-6, deguelin 10 lần kém độc hơn, tephrosin 40 lần và toxicarol 400 lần. Rotenon độc làm tê liệt trung tâm hô hấp, con sâu tiếp xúc với rotenon sẽ bị yếu đi rồi chết, không dãy dụa, trái lại với dung dịch pyretrin (trong cúc trừ sâu) con sâu sẽ quằn quại. Tuy nhiên không phải đối với sâu nào rotenon cũng có tác dụng.

Đối với người và động vật máu nóng các chất đó hầu như không có độc tính (qua đường tiêu hóa), nhưng nếu tiêm mạch máu có thể gây liệt hô hấp và chết do ngạt.

Trên cơ sở tác dụng dược lý, người ta còn kiểm nghiệm rễ cây duốc cá bằng phương pháp sinh vật như sau:

   Thử trên các loại cá vàng Carassius auratus (cyprin doré), Ides melanotes (Melanote), Phoxinus laevis (vairon): xác định nồng độ loãng nhất làm cho con cá mất thăng bằng hoặc bị kéo theo dòng nước chảy.

   Trên nhộng hay ấu trùng sâu bọ (doryphore, charancon ...): Phun những dung dịch loãng rotenon hay rễ duốc cá lên những ấu trùng đặt trong những lồng kín.

   Trên ruồi: Dùng lạnh làm tê liệt nhất thời ruồi, nhỏ trên mỗi con 1 giọt dung dịch thuốc định thử (dùng ống nhỏ giọt vi quản). Đếm số ruồi chết sau 24 giờ.

E. CÔNG DỤNG VÀ LIỀU DÙNG

Đối với người và súc vật: Người ta dùng rễ duốc cá làm thuốc tẩy giun nhưng rễ duốc cá cũng ít dùng so với các loại thuốc giun khác. Còn dùng chữa ghẻ dưới dạng thuốc mỡ.

Ở nước ta, tại một số vùng người ta chỉ hái cây duốc cá tươi, làm thành một vòng treo trên sừng trâu những con trâu bị dòi hay có ký sinh. Dòi và ký sinh thấy mùi duốc cá tự đi.

Duốc cá: Xem những nơi nào có cá, lấy một ít rễ dây duốc cá (nhiều ít tùy theo nơi đó nhiều hay ít nước) giã nhỏ, thả bột thô rễ cây duốc cá vào nước. Ít giờ sau, cá bị chất độc rotenon nên bị nghẹt thở nổi lên mặt nước. Bắt cá đó thả vào nước sạch, cá sẽ sống lại.

Thuốc trừ sâu hay dùng nhất, dưới những dạng sau đây: Để diệt trừ ruồi, muỗi, mối, mọt, dán, nhện, sâu hại cây trồng, ... tác dụng của rotenon mạnh gấp 4-10 lần nicotin. Đối với những sâu bọ có vỏ cứng và bộ máy hô hấp khó thâm nhập cần dùng với liều gấp hai, ba.

Trộn bột rễ duốc cá với những bột trơ như bột talc, đất sét, thạch cao, v.v... cần tránh những bột có phản ứng kiềm vì chất kiềm làm cho rotenon mất tác dụng: Cầu lacton có tác dụng bị phá hủy. Tỷ lệ pha trộn cũng không nên quá 30%, có khi chỉ cần 15% bột nguyên chất là đủ.

Có thể dùng bột rotenon cũng trộn với những bột trơ khác như tal, đất sét, v.v... nhưng tỷ lệ rotenon tối đa chỉ cần 1%, trung bình chỉ cần 0,25-0,50%. Bột rotenon để một năm không bị giảm tác dụng nhưng bột rễ duốc cá để lâu kém tác dụng. Nhưng nếu dùng bột rễ duốc cá tươi tác dụng còn mạnh hơn dùng rotenon. Thường tác dụng tốt nhất thu được với những dung dịch nước ngâm 5%  rễ duốc cá tươi.

Có khi người ta phối hợp rotenon hay rễ duốc cá với pyretrin vì pyretrin tác dụng mau hơn nhưng sự bảo quản của pyretrin còn chóng mất tác dụng hơn và giá thành cũng cao hơn.

Để tăng độ dính hay tính chất nhũ hóa thường người ta còn dùng thêm những chất dính như dầu lạc, dầu thầu dầu, anbumin, máu, casein ... chú ý dùng những chất dính không gây những phản ứng làm giảm tác dụng của rotenon, những chất nhũ hóa thường dùng là mật bò, xà phòng nhưng cũng chú ý tránh dùng những chất nhũ hóa có tính chất kiềm làm giảm tác dụng của rotenon.

Một công thức dùng rễ duốc cá:

   Rễ duốc cá 250g, xà phòng 250g, nước 100l. Rửa sạch rễ, giã nát ngâm vào 15 lít nước trong 24 giờ. Rửa sạch cối, chày. nước rửa dồn vào dung dịch nói trên. Sau 24 giờ vớt rễ ra và lọc. Bã ngâm vào 10 lít trong 3 giờ. Lọc lại. Khi dùng cho thêm nước đã pha thêm xà phòng vào theo tỷ lệ trên cho đủ 100 lít. Dùng bơm bơm lên những nơi có sâu, hoặc côn trùng như vườn rau, vườn cây, nhà cửa...

   Chú thích: Ngoài cây duốc cá Derris elliptica nói trên, tại nhiều nước còn dùng loại Derris malaccensis Prain cùng một mục đích.

   Gần đây, Viện y dược học dân tộc thành phố Hồ Chí Minh đã dùng lá cây cóc kèn Derris trifoliata Lour. cùng họ làm thuốc cầm máu, làm lành vết thương. Cây này là một loại dây leo lớn, lá có 3-5 lá chét, đôi khi 7, hoa màu trắng phớt hồng, mọc thành chùm, quả dài 3-4cm rộng 2-2,8cm, chứa một hạt. Trong lá cóc kèn có 11% tanin, rotenon, nhiều flavon dưới dạng bột mịn màu vàng nhạt (Dược học 2, 1980).

   Trong nhân dân còn dùng lá sắc uống chữa lỵ, ỉa chảy.

Nguồn: Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tác giả: Giáo sư Tiến sĩ khoa học ĐỖ TẤT LỢI



Xin vui lòng ghi rõ nguồn http://www.dotatloi.com khi phát hành lại thông tin.


Tuyên bố miễn trừ trách nhiệm:
Thông tin trên www.dotatloi.com chỉ phục vụ nghiên cứu học tập và mở rộng kiến thức. Không sử dụng làm căn cứ để tiến hành chẩn trị trên lâm sàng. Thông tin trên www.dotatloi.com có thể được trích dẫn, thu thập từ các ấn phẩm, các trang tin điện tử liên quan trong nước và ngoài nước. Nếu phát sinh vấn đề bản quyền, kính đề nghị phản hồi cho chúng tôi.

Viết bình luận

Để thuận tiện cho việc đăng tải, xin vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.
Chúng tôi mong muốn nhận được những bình luận theo hướng mở rộng hoặc bổ sung thông tin liên quan đến bài viết.
Chúng tôi sẽ khóa những bình luận có ngôn từ mang tính kích động hoặc bất nhã.

focus Kim sương
04/02/2025 08:45 CH

- 野黄皮. Còn gọi là mán chỉ, đõi cầy, chàm hôi, tráng, ớt rừng, lăng ớt, mak so mát, may bi canh, mak khèn (Lào), hang chang (Mường), tomlay khouang, leai sma (Campuchia). Tên khoa học Micromilim falcatum (Lour.) Tan, Aulacia falcata lour., Micrmelum hir sutu...

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu
Tên vị thuốc Mô tả
Rau mùi - 胡荽. Còn gọi là hồ tuy, hương tuy, nguyên tuy, ngò, ngổ, ngổ thơm, coriandre, coriander (Anh), koriander (Đức). Tên khoa học Coriandrum sativum L. Thuộc họ Hoa tán Apiaceae (Umbelliferac). Quả mùi (Fructus Coriandri) ta thường gọi nhầm là hạt mùi là quả chín phơi hay sấy khô của cây mùi. Mùi còn gọi là hồ tuy vì hồ là nước Hồ (tên Trung Quốc cổ đặt cho các nước ở Ấn Độ, Trung Á), tuy là ngọn và lá tản mát; Xưa kia Chương Khiên người Trung Quốc đi sứ nước Hồ mang giống cây này về có lá thưa thớt tản mát.
Rau muống - 蕹菜. Còn gọi là bìm bìm nước, tra kuôn (Cămpuchia), phak bang (Vienchian), liseron d'eau (Pháp). Tên khoa học Ipomoea reptans (L.) Poir. - Ipomoea aquatica Forsk. Thuộc họ Bìm bìm (Convolvulaceae).
Râu ngô - 玉米须. Râu ngô (Stigmata Maydis hay Styli et Stigmata Maydis) là vòi và núm phơi khô của hoa cây ngô (Zea mays L.) đã già và cho bắp. Râu ngô hái vào lúc ta thu hoạch ngô.
Rau om - 水芙蓉. Còn gọi là ngổ om, mò om, ngổ, ma am (Cămpuchia), phắp hom pôm (Lào). Tên khoa học Limnophila aromatica (Lamk.) Merr. Thuộc họ hoa mõm chó (Scrophulariaceae).
Rau sam - 馬齒莧 (马齿苋). Còn gọi là mã xỉ hiện, pourpier. Tên khoa học Portulaca oleracea L. Thuộc họ Rau sam (Portulacaceae). Người ta dùng toàn cây rau sam tươi hay phơi hoặc sấy khô (Herba Portulacae). "Mã" là con ngựa, "xỉ" là răng, "hiện" là một thứ rau, vì cây rau sam là một thứ rau có lá giống hình răng con ngựa.
Riềng - 高良薑 (高良姜). Còn gọi là cao lương khương, tiểu lương khương, phong khương, galanga. Tên khoa học Alpinia officinarum Hance. Thuộc họ Gừng (Zingiberaceae). Cao lương khương hay lương khương (Galanga, hay Rhizoma Alpiniae offcinarum) là thân rễ phơi khô của cây riềng. Vì đây là một loại “gừng” mọc ở quận Cao Lương, do đó có tên này (khương là gừng).
Rong mơ - 海藻. Còn gọi là loại rau mã vĩ, rau ngoai, rau mơ, hải tảo, rong biển. Tên khoa học Sargassum, Herba Sargassi. Rong mơ hau rau mơ (Sargassum hoặc Herba Sargassi) là toàn tảo rửa sạch phơi hay sấy khô của nhiều loài tảo khác nhau như Dương thê thái - Sangassum fusiforme (Harv). Setch., Hải khảo tử - Sargssum pallidum (Turn. C. Ag.) hoặc một loài tảo Sagssum sp. khác đều thuộc họ Rong mơ (Sargassaceae).
Sa nhân - 砂仁. Còn gọi là súc sa mật. Tên khoa học Amomum xanthioides Wall. Thuộc họ Gừng (Zingiberaceae). Sa nhân (Fructus et Semen Amomi xanthioidis) là quả gần chín phơi hay sấy khô của cây sa nhân (Amomum xanthioides). Người ta còn phân biệt xác sa là quả còn cả lớp vỏ và sa nhân là khối hạt còn lại sau khi đã bóc lớp vỏ ngoài. Vì hạt trông giống hạt sỏi, do đó có tên sa nhân; sa là cát, sỏi.
Sa nhân - Đậu khấu - 砂仁 - 豆蔻. Vấn đề sa nhân và đậu khấu hiện nay rất khó giải đáp chính xác. Với những tên đó, người ta dùng quả của nhiều loại cây khác nhau thuộc họ Gừng (Zingiberaceae). Dưới đây là một số vị thuốc chính nguồn gốc là những quả của nhiều loài cây họ Gừng: (1) Sa nhân (Fructus Amomi xanthioides); (2) Dương xuân xa (Fructus - Amomi villosi); (3) Đậu khấu còn gọi là bạch đậu khấu hay viên đậu khấu (Fructus Amomi cardamomi hay Fructus Cardamomi rotundi); (4) Tiểu đậu khấu (Fructus Cardamomi); (5) Hồng đậu khấu còn gọi là sơn khương tử (Fructus Alpiniae galangae); (6) Thảo đậu khấu (Semen Alpiniae katsumadai); (7) Ích trí nhân (Fructus Alpiniae yichi).
Sài đất - 蟛蜞菊. Còn gọi là húng trám, ngổ núi, cúc nháp, cúc giáp, hoa múc. Tên khoa học Wedelia calendulacea (L.) Less (Verbesina calendulacea L.). Thuộc họ Cúc Asteraceae (Compositae).
San sư cô - 青牛膽 (青牛胆). Còn có tên là tam thạch cô, thanh ngưu đởm, cửu ngưu đởm, kim chư đởm, sơn từ cô. Tên khoa học Tinospora sagittata (Oliv.) Gagnep. Thuộc họ Tiết dê (Menispermaceae).
Sắn thuyền - 多花蒲桃. Còn gọi là sắn sàm thuyền. Tên khoa học Syzygium resinosum (Gagnep) Merr. et Perry (Eugenia resinosa). Thuộc họ Sim (Myrtaceae).
Sảng - 假蘋婆 (假苹婆). Còn gọi là cây sảng, sảng lá kiếm, quả thang. Tên khoa học Sterculia lanceolata Cavan. Thuộc họ Trôm (Sterculiaceae).
Săng lẻ - 絨毛紫薇 (绒毛紫薇). Còn gọi là bằng lang, bằng lăng (miền Nam), kwer (dân tộc Ma, Tây Nguyên), thao lao, truol (Rađê, Tây Nguyên). Tên khoa học Lagerstroemia calyculata Kurz (syn. Lagerstroemia angustifolia Pierre ex.Lan.). Thuộc họ Tử vi (Lythraceae). Tên săng lẻ cũng như bằng lăng dùng chỉ nhiều cây thuộc cùng chi khác loài và thường thêm đuôi để chỉ nơi mọc hay giống một cây nào khác hoặc công dụng như bằng lăng nước (chỉ nơi mọc ở nước), bằng lăng ổi, bằng lăng chèo (vì gỗ để làm bơi chèo), bằng lăng tía (hoa màu tía), bằng lăng trắng (hoa màu trắng), .v.v. Tên Lagerstroemia do Carl von Linné đặt cho từ năm 1759 để nhớ tới người bạn thân của mình, một công chức người Thụy Điển có tên Magnus Lagerstroem sinh năm 1691 ở Stettin và chết năm 1759 ở Gotterburg.
Seo gà - 鳳尾草 (凤尾草). Còn gọi là phượng vĩ thảo, theo gà, phượng vĩ. Tên khoa học Pteris multifida Poir. (P. Serrulata L. f.). Thuộc họ Dương xỉ (Polypodiaceae). Tên seo gà vì lá có một cái seo giống như seo ở đuôi con gà.
Sim - 桃金娘. Còn gọi là đương lê, sơn nhậm, nhậm tử, đào kim nương. Tên khoa học Rhodomyrtus tomentosa Wight (Myrtus Tomentosa Ait., Myrtus canescens Lour.). Thuộc họ Sim (Myrtaceae).
Sổ - 五椏果. Còn gọi là sổ bà, thiều biêu, co má sản (Thái). Tên khoa học Dillenia indica L. Thuộc họ Sổ (Dilleniaceae).
Sở - 茶梅. Còn gọi là trà mai, trà mai hoa, cây dầu chè. Tên khoa học Camellia sasanqua Thunb. [Thea sasanqua (Thunb.) Nois.]. Thuộc họ Chè (Theaceae). Cây sở cho ta những sản phẩm sau đây: Dầu sở còn gọi là dầu chè dùng làm thực phẩm hay trong kỹ nghệ xà phòng. Khô sở dùng làm phân bón, nguyên liệu chiết saponozit, làm thuốc trừ sâu, duốc cá.
ĐỐI TÁC - LIÊN KẾT
[ Lên đầu trang ]