Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu

DÂU RƯỢU - 楊梅 (杨梅)

Còn gọi là dâu tiên (Quảng Bình - Vĩnh Linh), giang mai, thanh mai (Trung  Quốc), ko mak ngam, kom gam (Lào).

Tên khoa học Myrica rubra Sieb. et Zucc.

Thuộc họ Dâu rượu (Myricaceae).

DÂU RƯỢU, 楊梅, 杨梅, dâu tiên, giang mai, thanh mai, ko mak ngam, kom gam, Myrica rubra Sieb. et Zucc., Dâu rượu, Myricaceae

Dâu rượu - Myrica rubra

Tên thanh mai thường chỉ thấy ghi trong một số sách thực vật, có lẽ dựa theo tên Trung Quốc của cây. Trên thực tế điều tra trong nước, chúng tôi hầu như chưa thấy nơi nào nhân dân gọi cây này là cây thanh mai, mà thường chỉ gọi là cây dâu, cây dâu rượu hay cây dâu tiên. Cho nên chúng tôi chọn tên này là chính. Tên họ do đó cũng đổi lại là họ Dâu rượu.

A. MÔ TẢ CÂY

Cây nhỏ cao 0,40-0,50m nhưng cũng có thể cao tới 10m. Thường xuyên tại những đồi núi chỉ thấy cao 40-50cm. Cành nhỏ thường có phủ lông tơ.

Lá xanh tươi quanh năm, khi còn non hay ở những cành non thì có phiến lá to, hơi mềm, nhưng trên những cành già phiến lá nhỏ hơn và dai cứng. Phiến lá to dài 5-12cm, rộng 2-3cm, phiến lá nhỏ chỉ dài 2-3cm, rộng 8-10cm. Mép phiến lá non có răng cưa rõ, phiến lá già răng cưa không rõ. Cuống không rõ hoặc rất ngắn, dài 2-10mm.

Hoa khác gốc: Hoa đực gầy, thưa hoa; hoa cái mọc thành hình đuôi sóc dài 1-5cm.

Quả đường kính 5mm đến 1cm khi xanh có màu xanh, khi chín màu đỏ tím, trên mặt rất nhiều gợn thoạt trông giống như quả kép của quả dâu tằm (có lẽ vì vậy mà nhân dân gọi là quả dâu). Hạch dày nước và cứng, mọng nước, màu tím đỏ rất đẹp.

Mùa hoa: Tháng 10 - 11; mùa quả tháng 11-1.

B. PHÂN BỐ, THU HÁI VÀ CHẾ BIẾN

Cây mọc hoang tại nhiều tỉnh ở miền Bắc nước ta, nhiều nhất tại một số tỉnh  miền Trung như Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên, Vĩnh Linh,  vùng Langbian. Nhưng thường chỉ thấy ở Quảng Bình nhân dân khai thác dùng trong nước và xuất khẩu.

Còn thấy mọc ở Ấn Độ, Malaixia, miền nam Trung Quốc, Nhật Bản.

Vào mùa quả chín (tháng 12-3) ở Quảng Bình nhân dân thu hái về (đặt nón vào phía dưới cây, tuốt quả cho rụng vào nón) phơi khô, sau đó đem đồ cho chín rồi phơi khô lại. Đồ như vậy để được lâu không bị mọt.

C. THÀNH PHẦN HÓA HỌC

Chưa thấy tài liệu nghiên cứu.

Sơ bộ nghiên cứu thấy trong quả xanh có axit hữu cơ, tanin, vitamin C, trong quả chín có đường, sắc tố anthoxyan.

Vỏ cây chứa myrixentin C15H10O8, myrixitrin C21H20O12 (Lưu Mê Đạt Phu và cộng sự - Hòa hán dược dụng thực vật 1959, 353) và 11% tanin (Trung dược chí 1961, 1295, 1055).

Quả chứa 7-10% đường, 0,5-1% axit hữu cơ và rất ít myrixetin (Lưu Mê Đạt Phu -  như trên).

Lá chứa 0,02-0,03% tinh dầu, 12,9% tanin (C.A. 1955, 49, 4233d) và taraxerol.

IMG

D. CÔNG DỤNG VÀ LIỀU DÙNG

Dâu rượu được thấy ghi dùng làm thuốc đầu tiên trong "Khai tống bản thảo" sau đến "Bản thảo cương mục" với tên giang mai.

Trong tài liệu cổ ghi: Giang mai có vị chua, ngọt, tính bình; có tác dụng lý khí, tán ứ, thanh thấp nhiệt.

Toàn năm có thể thu lấy vỏ rễ hay vỏ thân, dùng tươi hay khô. Vào mùa hạ thu lấy quả phơi khô.

Chữa đau bụng, lỵ. Ngày dùng 8-12g vỏ khô sắc vơi nước uống trong ngày. Còn dùng chữa lở ngứa: Dùng vỏ thân hay vỏ rễ sắc nước rửa nơi lở ngứa.

Trong nước ta cho đến nay thấy ít được dùng làm thuốc. Thường đến mùa quả chín, trẻ con hái ăn hoặc bán để chế rượu uống: Quả chín hái về rửa sạch, cho thêm ít đường, thêm ít men rượu vào để trong vài ngày men rượu chuyển đường trong quả và đường thêm vào thành rượu, rượu này hòa tan các chất trong quả trong đó có các sắc tố anthoxyan làm cho rượu có màu tím đỏ đẹp, vị hơi chua và ngọt trông như rượu vang. Có khi người ta mua quả về cho thêm rượu vào ngâm. Cũng có khi chế thành mứt.

Trước cách mạng Tháng Tám, Quảng Bình khai thác quả chín phơi khô rồi xuất sang Trung Quốc hoặc đưa vào Sài Gòn - Chợ Lớn, tại đây người ta chế thành mứt hay thành rượu gọi là rượu Giang mai. Ngay tại Quảng Bình người ta chế thành rượu với tên rượu dâu dùng tại chỗ hay xuất khẩu.

Tại Trung Quốc người ta dùng quả chữa ho, chữa đau dạ dày. Còn dùng chữa ỉa chảy, lỵ.

Hạt được dùng chữa mồ hôi chân nhiều quá; vỏ thân và vỏ rễ dùng dưới dạng sắc để chữa vết loét ngoài da, hoặc ngộ độc do thạch tín.

Tại Ấn Độ, Nhật Bản người ta dùng những cây to để làm nguyên liệu tanin, nhuộm màu vàng, duốc cá.

Xem vậy chúng ta chưa chú ý tận dụng các bộ phận của cây này. Như trên đã nói chỉ mới thấy ở Quảng Bình người ta thu mua một số rất ít quả chín để dùng trong nước và xuất khẩu. Cần chú ý sử dụng tốt hơn một tài nguyên rất sẵn ở nước ta, đặc biệt ở Quảng Bình và Vĩnh Linh.

Chú thích về tên khoa học: Theo những tài liệu cũ thì tên khoa học của cây này là Mirica sapida Wall., nhưng đối chiếu với những cây chúng tôi thu được mẫu vật ở Quảng Bình thì thấy nhiều phần thuộc loài Myrica rubra hơn. Cần chú ý kiểm tra lại.

Nguồn: Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tác giả: Giáo sư Tiến sĩ khoa học ĐỖ TẤT LỢI



Xin vui lòng ghi rõ nguồn http://www.dotatloi.com khi phát hành lại thông tin.


Tuyên bố miễn trừ trách nhiệm:
Thông tin trên www.dotatloi.com chỉ phục vụ nghiên cứu học tập và mở rộng kiến thức. Không sử dụng làm căn cứ để tiến hành chẩn trị trên lâm sàng. Thông tin trên www.dotatloi.com có thể được trích dẫn, thu thập từ các ấn phẩm, các trang tin điện tử liên quan trong nước và ngoài nước. Nếu phát sinh vấn đề bản quyền, kính đề nghị phản hồi cho chúng tôi.

Viết bình luận

Để thuận tiện cho việc đăng tải, xin vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.
Chúng tôi mong muốn nhận được những bình luận theo hướng mở rộng hoặc bổ sung thông tin liên quan đến bài viết.
Chúng tôi sẽ khóa những bình luận có ngôn từ mang tính kích động hoặc bất nhã.

focus Ô đầu Việt Nam
02/06/2025 01:31 SA

- 越南烏頭 (越南乌头). Còn gọi là củ gấu tàu, củ ấu tàu (đừng nhầm với vị hương phụ có tên là củ gấu, xem vị này), cố y (Mèo - Nghĩa Lộ). Tên khoa học Aconitum fortunei Hemsl, (A. conitum sinense Sieb., Aconitum kusnezoffii Reichb var bodinieri Fin. et gagnep). Th...

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu
Tên vị thuốc Mô tả
Cây hột mát - 腫莢豆 (肿荚豆). Còn gọi là cây xa, thàn mát. Tên khoa học Antheroporum pierrei Gagnep. Thuộc họ Cánh bướm Fabaceae (Papilionaceae).
Cây huyết dụ - 鐵樹 (铁树). Tên khoa học Cordyline terminalis Kunth (Dracaena terminalis Jacq.). Thuộc họ Hành tỏi (Liliaceae). Ta dùng lá của cây huyết dụ (Folium Cordyline).
Cây ké đầu ngựa - 蒼耳 (苍耳). Còn gọi là thương nhĩ (tên Trung Quốc), phắt ma (Thổ). Tên khoa học Xanthium strumarium L.. Thuộc họ Cúc Asteraceae (Compositae). Ta dùng quả ké đầu ngựa, hay toàn bộ phận trên mặt đất của cây ké đầu ngựa, phơi hay sấy khô. Ở Trung Quốc, gọi quả ké là thương nhĩ tử (Fructus Xanthii).
Cây keo giậu Còn có tên là cây bồ kết dại, cây muồng, cây táo nhân. Tên khoa học Leucaena glauca Benth. Thuộc họ Trinh nữ (Mimosaceae). Ta dùng hạt keo còn gọi là hạt muồng, hạt quả bồ kết dại, hạt quả táo nhân - Semen Leucaenae Glaucae.
Cây khôi - 短柄紫金牛. Còn gọi là cây độc lực, đơn tướng quân. Tên khoa học Ardisia sylvestris Pitard. Thuộc họ Đơn nem (Myrsinaceae). Ta dùng lá cây khôi phơi hay sấy khô Folium Ardisiae.
Cây kim vàng - 花葉假杜鵑 (花叶假杜鹃). Còn có tên là Gai kim vàng, Trâm vàng. Tên khoa học Barleria lupulina Lindl. Thuộc họ Ô rô Acanthaceae.
Cây la - 野煙葉 (野烟叶). Còn gọi là la rừng, ngoi, cà hôi, phô hức (Thổ), chìa vôi, sang mou (Luang prabang-Lào). Tên khoa học Solanum verbascifolium L. (Solanum pubescens Roxb, Solanum erian-thum Don.). Thuộc họ Cà (Solanaceae).
Cây lá dứa - 香露兜. Còn gọi là lá dứa thơm, cây cơm nếp. Tên khoa học là Pandanus amaryllifolia Roxb. (Panadanus odorus Ridl). Thuộc họ Dứa gai (Pandanaceae).
Cây lá men - 小魚仙草 (小鱼仙草). Còn gọi là kinh giới núi, cây men. Tên khoa học Mosla dianthera Maxim. Thuộc họ Hoa Môi Lamiaceae (Labiatae).
Cây lá ngón - 斷腸草 (断肠草). Còn gọi là co ngón (Lạng Sơn), thuốc dút ruột - hồ mạn trường - đại trà đằng, hồ mạn đằng, hoàng đằng, câu vẫn, đoạn trường thảo. Tên khoa học Gelsemium elegans Benth, (Medicia elegans Gardn, Leptopteris sumatrana Blume). Thuộc họ Mã tiền (Loganiaceae). Cây lá ngón được coi lá loại cây độc nhất trong nước ta. Người ta cho rằng chỉ cần ăn 3 lá là đủ chết người. Tên cây ngón còn dùng để chỉ một cây khác nữa có tên khoa học là Pterocaryatonkinensis Dode thuộc họ Hồ đào (Juglandaceae) sẽ giới thiệu ở sau. Cần chú ý tránh nhầm lẫn.
Cây lá tiết dê - 錫生藤 (锡生藤). Còn gọi là cây mối tròn, cây mối nám. Tên khoa học Cissampelos pareira L. (Cissampelos convolvulacea Willd.). Thuộc họ Tiết dê (Menispermaceae).
Cây lai - 石栗. Còn gọi là thạch lật (Trung Quốc), ly (Thái) sekiritsu (Nhật), bancoulier à trois lobes. Tên khoa học Aleurites moluccana Willd. (Aleurites triloba Forst.). Thuộc họ Thầu dầu (Euphorbiaceae).
Cây lim - 格木. Còn gọi là xích diệp mộc, cách mộc. Tên khoa học Erythrophloeum fordii Oliv. Thuộc họ Vang (Caesalpiniaceae).
Cây mã tiên thảo - 馬鞭草 (马鞭草). Còn có tên là cỏ roi ngựa. Tên khoa học Verbena officinalis L.. Thuộc họ Cỏ roi ngựa (Verbenaceae). Người ta dùng toàn cây mã tiên thảo (Herba Verbenae) tươi hay phơi hoặc sấy khô. Tên mã tiên do chữ "mã" = ngựa, "tiên" = roi, vì cỏ dài, thẳng, có đốt như roi ngựa, do đó mà đặt tên như vậy. Châu Âu (Pháp) dùng với tên Verveine.
Cây mắm - 海欖雌 (海榄雌). Còn gọi là mắm đen, mắm trắng. paletuvier, manglier (Pháp). Tên khoa học Aviccennia marina Vierh var. alba Bakhuiz (mắm trắng), Avicennia marina Vierh var. rumphiana Bakhuiz. Thuộc họ Cỏ roi ngựa (Verbernaceae).
Cây mào gà đỏ - 雞冠花 (鸡冠花). Còn có tên bông mồng gà đỏ, kê quan hoa, kê đầu, kê quan. Tên khoa học Celosia cristata L. (Celosia argentea var. cristata (L.) O. Kuntze. Thuộc họ Dền (Amaranthaceae).
Cây mào gà trắng - 青葙. Còn có tên bông mồng gà trắng, đuôi lươn, dã kê quan, thanh tương tử. Tên khoa học Celosia argentea L. (C.linearis Sw.). Thuộc họ Dền (Amaranthaceae). Ta dùng vị thanh tương tử (Semen Celosiae) là hạt chín phơi hay sấy khô của cây mào gà trắng.
Cây me rừng - 餘甘子 (余甘子). Còn gọi là du cam tử, ngưu cam tử, dư cam tử. Tên khoa học Phyllantus emblica Linn. Thuộc họ Thầu dầu (Euphorbiaceae).
ĐỐI TÁC - LIÊN KẾT
[ Lên đầu trang ]