Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu

CÔ CA - 古柯

Tên khoa học Erythroxylon coca Lamk.

Thuộc họ Cô ca (Erythroxylaceae).

CÔ CA, 古柯, Erythroxylon coca Lamk., họ Cô ca, Erythroxylaceae

Cô ca - Erythroxylon coca

Tại một số nước châu Mỹ và miền Nam nước ta dưới thời Mỹ ngụy có lưu hành phổ biến một thứ nước uống mang tên côcacôla. Hiện nay ta vẫn cho tiếp tục sản xuất thứ nước uống này. Đối với nguyên liệu côla xin xem vị này, còn đối với côca vốn là nguyên liệu chế một chất ma túy tại sao lại đưa được vào thành nước uống?

Việc sử dụng lá cô ca làm nguyên liệu chế nước uống giải khát cần chú ý những điểm gì? Bên cạnh vai trò nguyên liệu làm thuốc, dưới đây chúng tôi có đề cập đến những câu hỏi trên đây.

A. MÔ TẢ CÂY

Cây nhỡ cao 3-5m, khi trồng thường nhỏ hơn.

Lá mọc so le, có cuống ngắn, kèm theo hai lá kèm biến đổi thành gai. Phiến lá hình bầu dục nguyên, mặt trên màu xanh lục nhạt, mặt dưới màu nhạt hơn. Hai bên gân giữa có hai đường cong lồi (gân giả) tương ứng với hai nếp gấp của lá trong chồi.

Hoa đều, lưỡng tính, xếp thành xim, ở kẽ lá hoặc lá bắc. Cuống ngắn. Tràng 5, nhánh màu trắng, mặt trong cánh hoa có 1 lưỡi nhỏ khía ở ngọn. 10 nhị hữu thị dính liền nhau ở gốc thành một ống phồng. Bầu có 3 vòi hoàn toàn rời nhau, phình ở ngọn. Hai ô của bầu lép đi, ô thứ ba đựng 1-2 noãn đảo.

Quả hạch nhỏ màu đỏ tươi, ở trên đài còn lại, đựng 1 hạt có nội nhũ.

B. PHÂN BỐ, THU HÁI VÀ CHẾ BIẾN

Cây vốn nguồn gốc những vùng nhiệt đới và á nhiệt đới nam châu Mỹ. Những nước sản xuất nhiều nhất hiện nay là Pêru (năm 1963 sản xuất tới 12.000 tấn lá), Bôlivi (năm 1963 sản xuất 3.000 tấn lá). Đó là những con số công bố chính thức, thực tế thì lớn hơn nhiều; ngoài ra còn ở Côlômbi (vài trăm tấn lá/năm), Inđônixia trước đây sản xuất tới 1.500 tấn lá/năm (1920), nhưng hiện nay rút xuống còn khoảng 2 tấn/năm.

Người ta phân biệt ra nhiều chủng cô ca:

   Chủng Erythroxylon coca Lank của Bôlivi và Pêru trồng trên vùng cao, lá dai, to.

   Chủng Erythroxylon coca var. spruceanum Burck (E. truxillense Rusby) trồng ở đồng bằng, vùng thấp, lá mỏng và nhỏ hơn, trồng ở Giava (Inđônêxia) từ cuối thế kỷ 19.

   Chủng Erythroxylon coca var. novodrannatense Morris, lá tròn và rộng.

Trồng bằng hạt, tại Bôlivi người ta trồng tại những vùng cao từ 300-180m, nhiệt độ trung bình trong năm giữa 18-26o. Thường có tính chất lẻ tẻ từng gia đình. Thu hoạch lá bắt đầu từ năm thứ hai.

Phơi hay sấy, rồi đóng thành bao từ 30-50kg. Mỗi hecta cho 85kg lá một vụ. Mỗi năm cho 340-359kg. Nếu chăm sóc đúng có thể cho tới 800kg. Mỗi năm hái lá từ 2 đến 4 lần.

Cây này được nhập vào nước ta từ lâu, vào khoảng 1930, nhưng không được phát triển. Cả miền Bắc và miền Nam đều thấy mọc tốt.

C. THÀNH PHẦN HÓA HỌC

Trong lá cô ca có từ 6-7% nước, 8-10% chất vô cơ, một ít tanin, axit clorogenic.

Trước đây người ta xác định trong lá cô ca có cocaintrin và cocaflavin, nhưng nay người ta đã xác định các chất đó tương ứng với rutozit và izoquexitrozit 0,05 đến 0,10% tinh dầu với thành phần chủ yếu là salixylat metyl, các chất sáp (ở mặt lá), một ít vitamin B1, B2 và C.

IMG

Hoạt chất của cô ca được xác định là những ancaloit có với hàm lượng từ 0,5 đến 2% thuộc hai nhóm chính là:

   1. Dẫn xuất của N-metyl pyrrolidin gồm 1 vòng, bay hơi. Đó là hygrin và cuscohygrin.

   2. Dẫn xuất của pseudotropanol: Gồm 2 vòng, không bay hơi, quan trọng nhất, trong đó người ta lại phân ra:

   a. Este của ecgonin (axitpseudotropanolcacbonic) hay ecgonein gồm:

   - Cocain hay metylbenzoylecgonin, chức ancol của pseudotropanol được este hóa bởi axit benzoic.

   - Xinamylcocain (metyl xinamyl ecgonin).

   - Truxillin hay cocamin (metyltrucillyl ecgonin) trong đó axit este hóa là các axit α hay β truxilic (dixinnamic) là những đồng phân cis và trans.

   b. Tropacocain tức là benzoylpseudotropanol.

   3. Ngoài ra Hegnauer còn phát hiện được một ít nicotin. Tỷ lệ những ancaloit thay đổi tùy theo nguồn gốc: Lá ở Bôlivi (Huanuco) chứa chủ yếu cocain và cuscohygrin, lá Pêru (Truxillo) chứa cocain và xinamylcocacin, lá ở Giava chứa xinamylcocain và một ít tropacocain.

D. TÁC DỤNG DƯỢC LÝ

Thổ dân nhiều nước miền Nam châu Mỹ đã biết sử dụng lá cô ca từ lâu đời vì họ cho rằng đây là một thứ thuốc bổ: Nhai lá cô ca thì không thấy cảm giác đói và khát do chất côcain làm tê niêm mạc dạ dày. Nhai lá cô ca còn làm cho người ta làm việc chân tay mà không cảm thấy mệt nhọc. Thực tế đây chỉ là một cảm giác do tác dụng gây tê của ancaloit chứ không phải là thức ăn dự trữ và cũng không có tác dụng bổ hay làm khỏe người, quên cả đói khát.

Chất cocain là một thuốc tê bề mặt, tác dụng lên các đoạn cuối của dây thần kinh cảm giác, gây co mạch do tác dụng giống giao cảm.

Dùng trong, cocain là một chất độc đối với hệ thần kinh, lúc đầu làm cho phấn chấn tinh thần, sức các cơ được tăng lên, nhưng sau gây hiện tượng xỉu. Liều cao sẽ kích thích dẫn tới co quắp, và cuối cùng liệt hô hấp. Những chất hygin không có tác dụng sinh lý rõ rệt. Những chất phân hủy của cocain cũng ít tác dụng.

Người ta phân biệt hai loại nghiện:

   Nghiện nhai lá côca (cocaisme): Người ta ước tính khoảng 5-6 triệu dân miền Nam châu Mỹ nghiện nhai lá côca. Mỗi người nhai khoảng vài kilôgam lá một năm. Cách nhai của thổ dân ở đây giống như nhân dân ta nhai trầu không: Lá nhai với tro bếp (kiềm). Nhai như vậy họ chịu đựng được những công việc mệt nhọc, nhưng dần dần người gầy yếu và suy sụp.

   Nghiện tiêm và hít cocain (cocainomanie) xuất hiện tại nhiều tỉnh thành phố châu Mỹ. Người nghiện luôn luôn phải tiêm dưới da hoặc hít cocain clohydrat với liều ngày càng tăng để tìm sự kích thích sảng khoái nhất thời nhưng kèm theo sự suy sụp với những biến chứng về nghe, nhìn, ảo giác, tinh thần giảm sút...

E. CÔNG DỤNG VÀ LIỀU DÙNG

Trong y dược lá côca (phải chứa ít nhất 0,7% ancaloit, trong đó chủ yếu là cocain) được dùng làm thuốc, nhưng xếp vào những thuốc gây nghiện, khi dùng phải theo những chế độ rất nghiêm ngặt để tránh gây nghiện cho người dùng.

Những chế phẩm của lá côca như bột, cồn, cao lỏng chứa trên 5 phần nghìn ancalit cũng đều phải theo những quy chế đối với thuốc gây nghiện. Trước đây người ta thường dùng chế phẩm của lá côca làm thuốc bổ, nhưng hiện nay việc sử dụng này đã rất hạn chế. Dùng ngoài nước hãm lá côca được dùng làm thuốc súc miệng.

Hiện nay công dụng chủ yếu của lá côca là còn nguyên liệu chiết cocain dưới dạng clo-hydrat cocain (thuốc độc gây nghiện, dùng với liều dùng tối đa 0,03-0,06) để làm thuốc tê tại chỗ trong khoa tai mũi họng, răng.

Người ta ước tính nhu cầu côcain trong y dược toàn thế giới chỉ vào khoảng dưới 2 tấn/năm, nghĩa là chỉ mới chiếm có 4% tổng lượng lá côca sản xuất trên toàn thế giới (theo con số công bố chính thức). Riêng Pháp đã sản xuất tới 200kg côcain/năm và hằng năm phải nhập hàng chục tấn lá côca hoặc cocain thô từ những nước trồng côca.

Làm nguyên liệu chế nước uống giải khát và nhai: Người ta ước tính nhu cầu này lớn nhất, chiếm hàng nghìn tấn/năm ngoài những sản lượng chính thức công bố. Người ta tìm mọi cách để hạn chế sự gây nghiện nguy hại này nhưng còn gặp rất nhiều khó khăn, nhất là tại những nước có truyền thống dùng lá côca nhai với tro bếp như nhân dân một số nước chây Á nhai trầu.

Nhu cầu dùng lá côca làm nước giải khát (nước uống côca-côla) cũng rất lớn, xuất phát từ quan niệm cho rằng lá côca là thuốc bổ trước đây. Để tránh sự gây nghiện và để bảo đảm cho nguồn nguyên liệu được dễ dàng, hội nghị quốc tế hạn chế chất ma túy năm 1961 đã quy định là những lá côca đã loại hết các chất ecgonin, cocain và những ancaloit dẫn xuất của ecgonin thì không phải theo những hạn chế về việc buôn bán những chất ma túy.

Trên thực tế ở miền Nam nước ta, người ta thường nhập cao côca chứ không phải lá côca để chế nước uống cocacola, nhưng người ta cũng không biết tại những nước bán ra người ta đã chế cao đó như thế nào. Cho nên trong điều kiện hiện nay tốt hơn hết là không nên tiếp tục chế loại nước uống này nữa, vốn chỉ là nhu cầu của một số nước ở châu Mỹ. Để thay vào đó chúng ta có thể nghiên cứu nhiều loại nước thích hợp với sở thích của nhân dân ta, bằng những nguyên liệu sẵn có trong nước.

Chúng tôi cho rằng những nguyên liệu nhập dưới dạng cao để chế nước uống cocacola trước đây đây đều hoàn toàn nhân tạo, cho nên trên những hộp nước uống cocacola người ta không giới thiệu nước uống với nguyên liệu thiên nhiên, mà chỉ giới thiệu công thức sau đây: Nước có khí cacbonic (carbonated watert), đường, màu của đường caramen, axit photphoric, mùi thơm thiên nhiên (gồm một số thành phần tinh dầu thiên nhiên) và cafein.

Điều này càng làm chúng ta thêm vững đi sâu nghiên cứu tìm những công thức nước uống với những nguyên liệu sẵn có trong nước ta và hợp với khẩu vị sở thích của nhân dân ta.

Nguồn: Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tác giả: Giáo sư Tiến sĩ khoa học ĐỖ TẤT LỢI



Xin vui lòng ghi rõ nguồn http://www.dotatloi.com khi phát hành lại thông tin.


Tuyên bố miễn trừ trách nhiệm:
Thông tin trên www.dotatloi.com chỉ phục vụ nghiên cứu học tập và mở rộng kiến thức. Không sử dụng làm căn cứ để tiến hành chẩn trị trên lâm sàng. Thông tin trên www.dotatloi.com có thể được trích dẫn, thu thập từ các ấn phẩm, các trang tin điện tử liên quan trong nước và ngoài nước. Nếu phát sinh vấn đề bản quyền, kính đề nghị phản hồi cho chúng tôi.

Viết bình luận

Để thuận tiện cho việc đăng tải, xin vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.
Chúng tôi mong muốn nhận được những bình luận theo hướng mở rộng hoặc bổ sung thông tin liên quan đến bài viết.
Chúng tôi sẽ khóa những bình luận có ngôn từ mang tính kích động hoặc bất nhã.

focus Cọ dầu
10/06/2025 08:24 CH

- 油棕. Còn gọi là palmier à huile. Tên khoa học Elaeis guineensis Jacq. Thuộc họ Dừa (Palmae).

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu
Tên vị thuốc Mô tả
Cây vòi voi - 大尾摇. Còn gọi là vòi voi, cẩu vĩ trùng, đại vĩ đạo, promoi damrey - xantui damrey (Campuchia). Tên khoa học Heliotropium indicum L. (Heliotropium anisophyllum P. de B.). Thuộc họ Vòi voi (Borraginaceae). Tên vòi voi vì cụm hoa của cây giống hình vòi con voi.
Cây vông nem - 刺桐. Còn có tên là hải đồng bì, thích đồng bì. Tên khoa học Erythrina indica Lamk. Thuộc họ Cánh bướm (Papilionaceae). Ta dùng lá tươi hay phơi hoặc sấy khô (Folium Erythrinae) hoặc vỏ thân phơi hay khô (Cortex Erythrinae) của cây vông. Tên vông nem vì nhân dân thường dùng lá để gói nem và để phân biệt với cây vông đồng.
Cây xa kê - 麵包樹 (面包树). Còn gọi là cây bánh mỳ, arbre à painvrai. Tên khoa học Artocarpus incisa L. Thuộc họ Dâu tằm (Moraceae).
Cây xà sàng - 蛇床子. Còn có tên là cây giần sàng. Tên khoa học Cnidium monnier (L.) Cuss. (Selinum monnieri L.). Thuộc họ Hoa tán (Umbelliferae). Tên giần sàng vì cụm hoa trông từ trên xuống giống cái giần hay cái sàng gạo. Người xưa nói vì rắn hay nằm lên trên và ăn hạt cây này do đó gọi tên là "xà" = rắn, "sàng" = giường. Người ta dùng xà sàng tử (Fructus Cnidii) là quả phơi hay sấy khô của cây xà sàng.
Cây xá xị Còn gọi là vù hương, rè hương, cô châu, canh châu, bois de vierge. Tên khoa học Cinnamomun parthennoxylon Meissn, (Sassfras parthenoxylon Meissn). Thuộc dòng họ Long não (Lauraceae). Chú thích về tên tên cây xá xị chỉ mới được nhân dân các tỉnh phía Nam đặt ra ít năm gần đây, vì thấy tinh dầu, gỗ thân và gỗ rễ cây này có mùi rất giống mùi nước uống xá xị (Salsepareille) đóng chai, một loại nhập của Mỹ hay của Pháp bao gồm các vị thổ phục linh, cam thảo, salixylat metyl, tinh dầu tiểu hồi, tinh dầu sassafras (xem thổ phục linh và vị sassafras).
Cây xấu hổ - 含羞草. Còn có tên là cây mắc cỡ, cây thẹn, cây trinh nữ, hàm tu thảo. Tên khoa học Mimosa pudica L. Thuộc họ Trinh nữ (Mimosaceae). Tên xấu hổ do lá cây và cành cụp xuống khi có người đụng vào lá cây.
Cây xộp - 薜荔. Còn có tên gọi là xộp xộp, trâu cổ, vẩy ốc, bị lệ. Tên khoa học Ficus pumila L. Thuộc họ Dâu tằm (Moraceae).
Cây xương sáo - 凉粉草. Còn gọi là cây thạch đen, lương phấn thảo. Tên khoa học Mesona chinensis Benth. Thuộc họ Hoa môi Lamiaceae (Labiatae).
Chanh - 檸檬 (柠檬). Còn gọi là chứ hở câu (Mèo), má điêu (Thái), mak vo (Lào). Tên khoa học Citrus limonia Osbeck (Citrus medica L. subsp .limon Lour.). Thuộc họ Cam quýt (Rutaceae).
Chanh trường - 旋花茄. Còn gọi là mắc dit (Lào). Tên khoa học Solanum spirale Roxb. Thuộc họ Cà (Solanaceae).
Châu thụ - 芳香白珠. Còn gọi là lão quan thảo (Sìn hồ, Lai Châu). Tên khoa học Gaultheria fragrantissima Wall. (Gaultheria fragrans Don). Thuộc họ Đỗ quyên (Ericaceae).
Chay - 胭脂樹 (胭脂树). Còn gọi là Cây chay. Tên khoa học Artocarpus tonkinensis A. Chev. Thuộc họ Dâu tằm (Moraceae).
Chè vằng - 茉莉. Còn gọi là chè cước man, dây cẩm văn, cây dâm trắng, cây lá ngón, dây vắng, mổ sẻ. Tên khoa học Jasminum subtriplinerve Blume. Thuộc họ Nhài (Oleaceae). Nhiều người gọi nhầm cây chè vằng là cây lá ngón, nhưng một cây có hoa vàng (lá ngón thật), một cây kia hoa trắng, ngoài ra còn một số điểm khác cần chú ý để tránh nhầm lẫn.
Chỉ cụ - 枳椇. Còn gọi là khúng kháng (Cao Bằng, Lạng Sơn), vạn thọ, kê trảo. Tên khoa học Hovenia dulcis Thunb. Thuộc họ Táo ta (Rhamnaceae).
Chỉ thiên - 地膽草 (地胆草). Còn gọi là cỏ lưỡi mèo, địa đảm đầu, địa đảm thảo, bồ công anh, khổ địa đảm. Tên khoa học Elephantopus scaber L. (Scabiosa cochinchinensis Lour., Astercocephalus cochinchinensis Spreng.). Thuộc họ Cúc Asteraceae (Compositae). Tên thông thường của cây này là chỉ thiên, tuy nhiên, tại một số vùng Nam Bộ, và Trung Bộ người ta gọi là cây lưỡi mèo. Một số người ở miền Nam dùng với tên bồ công anh. Tại một số tỉnh miền Nam Trung Quốc (Quảng Tây), người ta cũng dùng cây này với tên bồ công anh (xem vị này), cần chú ý tránh nhầm lẫn.
Chỉ thực - 枳實 (枳实). Còn gọi là chỉ xác, xuyên chỉ thực, xuyên chỉ xác. Tên khoa học Citrus sp. Thuộc họ Cam quít (Rutaceae). Chỉ thực (Fructus Aurantii immaturii) và Chỉ xác (Fructus Citri aurantii) đều là quả phơi khô của chừng hơn 10 cây chi Citrus và Poncirus thuộc họ Cam quít (Rutaceae) nhưng thu hái ở thời kỳ khác nhau. Chỉ thực là quả hái vào lúc còn non nhỏ, có khi do bị gió mạnh tự rụng dưới gốc cây (theo chữ Trung Quốc chỉ là tên cây, thực là quả). Chỉ xác là quả hái vào lúc gần chín. Thường bổ đôi để phơi cho chóng khô. Chỉ xác thường to hơn chỉ thực và thường bổ đôi. Chỉ vẫn là tên cây, xác là còn vỏ và xơ vì quả bổ đôi phơi khô ruột quả bị quắt lại.
Chìa vôi - 白粉藤. Còn gọi là bạch liễm, đau xương, bạch phấn đằng. Tên khoa học Cissus modeccoides Planch. [Cissus vitiginea Lour. (non L.) C. triloba merr., Callicarpa triloba Lour.]. Thuộc họ Nho (Ampelidaceae).
Chìa vôi - 盒果藤. Còn gọi là bình vôi, bặch phấn đằng, turbith vegetal. Tên khoa học Ipomoea turpethum R. Br., Operculina turpethum (L) Silva Manso. Thuộc họ Bìm bìm (Convolvulaceae).
ĐỐI TÁC - LIÊN KẾT
[ Lên đầu trang ]