Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu

CHỈ THỰC - 枳實 (枳实)

Còn gọi là chỉ xác, xuyên chỉ thực, xuyên chỉ xác.

Tên khoa học Citrus sp.

Thuộc họ Cam quít (Rutaceae).

CHỈ THỰC, 枳實, 枳实, chỉ xác, xuyên chỉ thực, xuyên chỉ xác, Citrus sp, họ Cam quít, Rutaceae

Một loại chỉ thực - Citrus sp.

Chỉ thực (Fructus Aurantii immaturii) và Chỉ xác (Fructus Citri aurantii) đều là quả phơi khô của chừng hơn 10 cây chi Citrus và Poncirus thuộc họ Cam quít (Rutaceae) nhưng thu hái ở thời kỳ khác nhau.

Chỉ thực là quả hái vào lúc còn non nhỏ, có khi do bị gió mạnh tự rụng dưới gốc cây (theo chữ Trung Quốc chỉ là tên cây, thực là quả).

Chỉ xác là quả hái vào lúc gần chín. Thường bổ đôi để phơi cho chóng khô. Chỉ xác thường to hơn chỉ thực và thường bổ đôi. Chỉ vẫn là tên cây, xác là còn vỏ và xơ vì quả bổ đôi phơi khô ruột quả bị quắt lại.

A. NHỮNG CÂY CUNG CẤP CHỈ THỰC VÀ CHỈ XÁC

Ngay tại Trung Quốc, người ta cũng hái chỉ thực và chỉ xác ở rất nhiều cây khác nhau, đây chỉ kể một số cây chính:

   1. Pancirus trifolia Raf. tên Trung Quốc là chỉ hay câu kết.

   2. Citrus wilsonit Tanaka tên Trung Quốc là hương viên.

   3. Citrus anrantium L. Tên Trung Quốc là toan đăng hay câu đầu đăng, bì đầu đăng.

   4. Citrus aurantium L. var amara Engl. tên Trung Quốc là đại đại hoa.

   Ở Việt Nam ta cũng hái rất nhiều cây khác nhau thuộc họ Cam quít; việc xác định tên chính xác còn chưa làm được. Thường người ta nói đến cây chấp có lẽ thuộc vào cây Citrus hystrix D.C.

B. PHÂN BỐ, THU HÁI VÀ CHẾ BIẾN

Những cây có thể cho chỉ thực và chỉ xác mọc hoang và được trồng ở nhiều nơi miền Bắc và miền Nam nước ta. Những năm trước thu mua ở nhiều tỉnh, nhưng trong năm 1962 chỉ thu mua chủ yếu ở Hà Tĩnh (Nghệ Tĩnh). Ta có thể nghiên cứu sử dụng những quả rụng ở những nông trường trồng chanh cam của ta tại các tỉnh Hà Bắc, Nghệ An, Thanh Hóa.

Muốn có chỉ thực, thường vào các tháng 5, tháng 6, người ta nhặt những quả non, rụng ở dưới gốc cây, rồi đem phơi khô hay sấy khô. Nếu quả to thì bổ đôi mà phơi cho chóng. Khi phơi không nên phơi nắng quá, quả sẽ có màu vàng xấu.

Muốn có chỉ xác vào, tháng 7-8 hái những quả gần chín, vỏ còn xanh, bổ đôi rồi phơi hay sấy khô.

C. THÀNH PHẦN HÓA HỌC

Chỉ thực, chỉ xác của ta chưa thấy có tài liệu nghiên cứu.

Nghiên cứu chỉ thực của tỉnh Tứ Xuyên Trung Quốc, năm 1958 hệ dược, Viện y học Bắc Kinh tìm thấy 0,09% ancaloit; 20,49% glucozit; 5,86% saponin.

Trong chỉ xác tại đó người ta chỉ thấy có 9,89% glucozit.

Các hoạt chất khác chưa rõ.

D. TÁC DỤNG DƯỢC LÝ

Những năm gần đây, một số tác giả Trung Quốc đã nghiên cứu tác dụng của chỉ thực và chỉ xác trên súc vật.

Sau đây là một số kết quả:

   1. Tác dụng trên tử cung và trên dạ dày, ruột. Năm 1955 Diêm Ứng Bổng đã báo cáo (Trung Hoa y học tạp chí 5: 433-437), đã dùng xuyên chỉ thực, giang chỉ xác, giang chỉ thực, hồ chỉ xác, hồ chỉ thực chế thành dung dịch nước 100% (thể tích) rồi thí nghiệm trên động vật thì thấy rằng trên tử cung cô lập của chuột nhắt, dù có thai hay không có thai, đều có tác dụng ức chế, nhưng cũng có trường hợp không thấy tác dụng. Đối với tử cung thỏ cô lập hay tại chỗ, dù có chửa hay không có chửa đều có tác dụng hưng phấn, nhưng cũng có trường  hợp không tác dụng hay có tác dụng ức chế. Đối với mẩu ruột cô lập của chuột nhắt thì chủ yếu thấy tác dụng ức chế, nhưng cũng có trường hợp không thấy phát sinh phản ứng. Đối với 36 lần thí nghiệm trên mẩu ruột tại chỗ thì 70%  thấy có tác dụng ức chế.

   Tác giả còn dùng chỉ thực, chỉ xác chế thành cồn thuốc và cao lỏng để thí nghiệm so sánh với dung dịch nước thì thấy tác dụng giống nhau, so sánh với tác dụng của adrênalin, thì tác dụng cũng giống nhau. Tuy nhiên tác dụng của thí nghiệm so sánh trên tử cung cô lập của chuột nhắt hay trên mẩu ruột cô lập của chuột nhắt hay trên mẩu ruột cô lập của thỏ thì thấy tác dụng của adrênalin ngắn hơn là tác dụng của cồn chỉ xác và cao lỏng chỉ xác.

   Năm 1956, Chu Tử Minh (Trung Hoa y học tạp chí 10 : 946-953) đã báo cáo dùng giang chỉ thực và giang chỉ xác, xuyên chỉ thực và xuyên chỉ xác chế thành thuốc sắc 100% (theo thể tích) cho súc vật uống và thụt (đối với thỏ) hoặc cho vào qua lỗ dò của tử cung thỏ, dạ dày và ruột chó đẻ thí nghiệm lâu dài, thì thấy đổi với tử cung của thỏ, dù có chửa hay không có chửa đều thấy tác dụng hưng phấn, đi tới co thắt mạnh lên, có thể tới co cứng. Đối với dạ dày và ruột chó cũng thấy tác dụng hưng phấn, làm cho dạ dày và ruột chuyển động mạnh lên nhưng có quy luật. Tác giả cho rằng phản ứng của tử cung thỏ và của người đối với thuốc rất giống nhau, vậy có phải vì chỉ thực và chỉ xác có tác dụng hưng phấn đối với tử cung của thỏ mà trong đông y đã dùng chỉ thực, chỉ xác để chữa sa tử cung; còn tác dụng trên dạ dày và ruột cô lập hoàn toàn ngược lại với tác dụng trên dạ dày và ruột tại chỗ có phải là có quan hệ đối với vỏ não không.

   2. Tác dụng trên mạch máu, bộ máy tiết niệu và hô hấp. Diêm Ứng Bổng đã dùng nước sắc 100% chỉ thực và chỉ xác thí nghiệm đối với huyết áp của chó đánh mê, đo dung tích thận, lượng nước tiểu, tác dụng trên tim ếch cô lập (phương pháp Straub), trên huyết quản một loại cóc (theo phương pháp Frohlich) và trên khí quản của chuột bạch đã đi đến những kết quả sau đây:

   a) Huyết áp tăng cao, dung tích của thận giảm xuống.

   b) Nồng độ thấp làm cho tim cô lập của loại cóc co bóp mạnh, nhưng ở nồng độ cao, sự co bóp lại giảm.

   c) Tiêm tĩnh mạch chó gây mê thì thấy tiết niệu tạm thời ngừng lại.

   d) Có tác dụng co thắt nhẹ đối với mạch máu của loại cóc.

   e) Không thấy tác dụng giãn nỡ hay co thắt đối với chi khí quản của chuột bạch. Thí nghiệm bằng cồn hay cao lỏng chỉ thực và chỉ xác đều thấy kết quả tương  tự.

E. CÔNG DỤNG VÀ LIỀU DÙNG

Chỉ thực và chỉ xác đều là những vị thuốc thông dụng trong đông y.

Theo tài liệu cổ chỉ thực và chỉ xác có vị đắng, chua, tính hơi hàn, vào hai kinh Tỳ và Vị. Tác dụng phá khí, tiêu tích, hóa đờm, trừ bĩ (báng ở bụng), lợi cách, khoan hung. Chỉ thực, chỉ xác tác dụng giống nhau nhưng chỉ xác yếu hơn.

Mặc dầu trong các quả này lúc tươi có chứa tinh dầu, nhưng người ta ít chú ý dùng tinh dầu, vì các vị này càng để lâu càng cho là tốt hơn.

Cả hai vị đều là những thuốc có tác dụng giúp sự tiêu hóa, trừ đờm, táo thấp, lợi tiểu tiện, ra mồ hôi, yên dạ dày, ruột v.v...

Ngày dùng 6 đến 12g (có thể dùng hơn) dưới dạng thuốc sắc. Dùng riêng hay phối hợp với các vị thuốc khác.

Đơn thuốc có chỉ thực và chỉ xác:

   Chỉ truật thang: Chỉ thực 20g, bạch truật 6g, nước 600ml, sắc còn 200ml. Chia 3 lần uống trong ngày. Dùng trong những trường hợp dạ dày và gan kém hoạt động, không đi ỉa được (đơn thuốc của Trương Trọng Cảnh).

   Bài thuốc chữa trẻ con đi lỵ, ăn uống thất thường: Chỉ xác sấy khô tán nhỏ. Mỗi ngày cho uống 2 lần, mỗi lần 3g.

   Chữa đại tiện khó khăn: Chỉ thực 20g, bồ kết 20g. Hai vị tán nhỏ, làm thành viên bằng hạt ngô. Mỗi ngày uống 10 viên vào buổi tối, trước khi đi ngủ.

Người ta còn dùng chỉ thực và chỉ xác dể chữa ho, hen, đờm xuyễn.

Tuy nhiên trong đông y, người ta còn khuyên là phụ nữ có mang, gầy yếu và những người tỳ vị hư hàn mà không thấp và tích trệ thì không nên dùng.

Nguồn: Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tác giả: Giáo sư Tiến sĩ khoa học ĐỖ TẤT LỢI



Xin vui lòng ghi rõ nguồn http://www.dotatloi.com khi phát hành lại thông tin.


Tuyên bố miễn trừ trách nhiệm:
Thông tin trên www.dotatloi.com chỉ phục vụ nghiên cứu học tập và mở rộng kiến thức. Không sử dụng làm căn cứ để tiến hành chẩn trị trên lâm sàng. Thông tin trên www.dotatloi.com có thể được trích dẫn, thu thập từ các ấn phẩm, các trang tin điện tử liên quan trong nước và ngoài nước. Nếu phát sinh vấn đề bản quyền, kính đề nghị phản hồi cho chúng tôi.

Viết bình luận

Để thuận tiện cho việc đăng tải, xin vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.
Chúng tôi mong muốn nhận được những bình luận theo hướng mở rộng hoặc bổ sung thông tin liên quan đến bài viết.
Chúng tôi sẽ khóa những bình luận có ngôn từ mang tính kích động hoặc bất nhã.

focus Cây dền
03/02/2025 12:00 SA

- 木瓣樹 (木瓣树). Còn gọi là cây sai (Hà Bắc - Sơn Động), cây thối ruột, mảy sẳn săn (Thổ). Tên khoa học Xylopia vielane Pierre. Thuộc họ Na (Anonaceae).

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu
Tên vị thuốc Mô tả
Cây khôi - 短柄紫金牛. Còn gọi là cây độc lực, đơn tướng quân. Tên khoa học Ardisia sylvestris Pitard. Thuộc họ Đơn nem (Myrsinaceae). Ta dùng lá cây khôi phơi hay sấy khô Folium Ardisiae.
Cây la - 野煙葉 (野烟叶). Còn gọi là la rừng, ngoi, cà hôi, phô hức (Thổ), chìa vôi, sang mou (Luang prabang-Lào). Tên khoa học Solanum verbascifolium L. (Solanum pubescens Roxb, Solanum erian-thum Don.). Thuộc họ Cà (Solanaceae).
Cây lá men - 小魚仙草 (小鱼仙草). Còn gọi là kinh giới núi, cây men. Tên khoa học Mosla dianthera Maxim. Thuộc họ Hoa Môi Lamiaceae (Labiatae).
Cây lá ngón - 斷腸草 (断肠草). Còn gọi là co ngón (Lạng Sơn), thuốc dút ruột - hồ mạn trường - đại trà đằng, hồ mạn đằng, hoàng đằng, câu vẫn, đoạn trường thảo. Tên khoa học Gelsemium elegans Benth, (Medicia elegans Gardn, Leptopteris sumatrana Blume). Thuộc họ Mã tiền (Loganiaceae). Cây lá ngón được coi lá loại cây độc nhất trong nước ta. Người ta cho rằng chỉ cần ăn 3 lá là đủ chết người. Tên cây ngón còn dùng để chỉ một cây khác nữa có tên khoa học là Pterocaryatonkinensis Dode thuộc họ Hồ đào (Juglandaceae) sẽ giới thiệu ở sau. Cần chú ý tránh nhầm lẫn.
Cây lá tiết dê - 錫生藤 (锡生藤). Còn gọi là cây mối tròn, cây mối nám. Tên khoa học Cissampelos pareira L. (Cissampelos convolvulacea Willd.). Thuộc họ Tiết dê (Menispermaceae).
Cây lai - 石栗. Còn gọi là thạch lật (Trung Quốc), ly (Thái) sekiritsu (Nhật), bancoulier à trois lobes. Tên khoa học Aleurites moluccana Willd. (Aleurites triloba Forst.). Thuộc họ Thầu dầu (Euphorbiaceae).
Cây lim - 格木. Còn gọi là xích diệp mộc, cách mộc. Tên khoa học Erythrophloeum fordii Oliv. Thuộc họ Vang (Caesalpiniaceae).
Cây mã tiên thảo - 馬鞭草 (马鞭草). Còn có tên là cỏ roi ngựa. Tên khoa học Verbena officinalis L.. Thuộc họ Cỏ roi ngựa (Verbenaceae). Người ta dùng toàn cây mã tiên thảo (Herba Verbenae) tươi hay phơi hoặc sấy khô. Tên mã tiên do chữ "mã" = ngựa, "tiên" = roi, vì cỏ dài, thẳng, có đốt như roi ngựa, do đó mà đặt tên như vậy. Châu Âu (Pháp) dùng với tên Verveine.
Cây mào gà đỏ - 雞冠花 (鸡冠花). Còn có tên bông mồng gà đỏ, kê quan hoa, kê đầu, kê quan. Tên khoa học Celosia cristata L. (Celosia argentea var. cristata (L.) O. Kuntze. Thuộc họ Dền (Amaranthaceae).
Cây mào gà trắng - 青葙. Còn có tên bông mồng gà trắng, đuôi lươn, dã kê quan, thanh tương tử. Tên khoa học Celosia argentea L. (C.linearis Sw.). Thuộc họ Dền (Amaranthaceae). Ta dùng vị thanh tương tử (Semen Celosiae) là hạt chín phơi hay sấy khô của cây mào gà trắng.
Cây nghể - 水蓼. Còn có tên là thủy liễu, rau nghể. Tên khoa học Polygonum hydropiper L. Persicaria hydropiper (L.) Spoch. Thuộc họ Rau răm (Polydonaceae). Nghể (Herba Polygoni hydropiperis) là toàn cây phơi hay sấy khô của cây nghể (Polygonum hydropiper L.).
Cây ngọt nghẹo - 嘉蘭 (嘉兰). Còn gọi là roi, cỏ củ nhú nhoái, vinh quang rực rỡ, phan ma ha (Lào), var sleng đông đang (Cămpuchia)... Tên khoa học Gloriosa superba L. (G.simplex Don.). Thuộc họ Hành tỏi (Liliaceae). Cây ngọt nghẹo là một nguồn conchixin ở nước ta và những nước nhiệt đới khác, đồng thời là một cây làm cảnh vì hoa rất đẹp.
Cây ngưu tất - 牛膝. Còn có tên là cây cỏ xước, hoài ngưu tất. Tên khoa học Achyranthes bidentata Blume. Thuộc họ Dền (Amaranthaceae). Ta dùng rễ phơi hay sấy khô - Radix Achyranthis bidentatac - của cây ngưu tất. Sách cổ nói: Vị thuốc giống đầu gối con trâu lên gọi là ngưu tất ("ngưu" là trâu, "tất" là đầu gối).
Cây nhàu - 海濱木巴戟 (海滨木巴戟). Còn có tên cây ngao, nhầu núi, giầu. Tên khoa học Morinda citrifolia L. Thuộc họ Cà phê (Rubiaceae).
Cây rau má lá rau muống - 一點紅 (一点红). Còn gọi là hồng bối diệp, dương đề thảo, nhất điểm hồng, cây rau má lá rau muống cuống rau răm, tiết gà, tam tróc, rau chua lè, hoa mặt trời, lá mặt trời. Tên khoa học Emilia sonchifolia (L) DC. (Cacalia sonchifolia (L), Gunura caluculata DC.). Thuộc họ Cúc asteraceae (Compositae).
Cây râu mèo - 貓須草 (猫须草). Còn có tên gọi là cây bông bạc. Tên khoa học Orthisiphon stamineus Benth. Thuộc họ Hoa môi Lamiaceae (Labiatae). Ta dùng lá râu mèo (Folium Orthosiphonis) là lá và búp phơi hay sấy khô hoặc chế biến rồi phơi hay sấy khô của cây râu mèo hay bông bạc.
Cây rau ngổ - 沼菊. Còn gọi là rau ngổ thơm, rau ngổ trâu, cúc nước, phak hom pom (Lào). Tên khoa học Enhydra fluctuans Lour. (Hingtsha repens Roxb. Tetractis paludosa Blume). Thuộc họ Cúc Asteraceae (Compositae).
Cây rau ngót - 天綠香. Còn gọi là bồ ngót, bù ngót, hắc diện thần (Trung Quốc). Tên khoa học Sauropus androgynus (L) Merr. Thuộc họ Thầu dầu (Euphorbiaceae).
ĐỐI TÁC - LIÊN KẾT
[ Lên đầu trang ]