Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu

CÂY TRÚC ĐÀO - 夹竹桃

Còn gọi là đào lê, giáp trúc đào, laurier rose.

Tên khoa học Nerium oleander L. (Nerium laurifolium Lamk.).

Thuộc họ Trúc đào (Apocynacceae).

CÂY TRÚC ĐÀO, 夹竹桃, đào lê, giáp trúc đào, laurier rose, Nerium oleander L., Nerium laurifolium Lamk., họ Trúc đào, Apocynacceae

Trúc đào - Nerium oleander

Vì lá cây giống lá trúc, hoa giống hoa đào, do đó có tên.

A. MÔ TẢ CÂY

Trúc đào là một cây nhỡ, có thể cao tới 4-5m, mọc riêng lẻ hay có khi trồng thành bụi. Cành mềm dẻo.

Lá mọc đối hay mọc vòng từng 3 lá một, thuộc loại lá đơn, mép nguyên, cuống ngắn; phiến lá hình mác, dài 7-20cm, rộng từ 1-4cm, dai cứng, mặt trên màu xanh thẫm, mặt dưới màu nhạt hơn; gân đều, song song ngang hai bên gân chính.

Hoa màu hồng hay màu trắng, mọc thành xim ngù ở đầu cành.

Quả gồm hai đại, gầy, trong chứa rất nhiều hạt có nhiều lông.

B. PHÂN BỐ, THU HÁI VÀ CHẾ BIẾN

Cây vốn mọc hoang ở vùng ven biển Địa Trung Hải, chưa rõ được di thực và nước ta từ hồi nào, chỉ biết hiện nay được trồng làm cảnh ở các vườn hoa hay dọc bên đường như ở Đồng Đăng, Lạng Sơn.

Việc trồng rất dễ dàng; chỉ việc cắt những cành bánh tẻ (không non), không già quá) thành từng đoạn dài 15-50cm, cắm nghiêng xuống đất; tưới để giữ độ ẩm đều, trong vòng 15 ngày đến 1 tháng là cây mọc. Sau 1 năm có thể thu hoạch lá nhưng càng những năm sau số lượng lá thu hoạch càng cao. Cắt lá nên cắt cả cành vì như vậy cành non mới phát triển và cho nhiều lá.

Có thể hái lá quanh năm, nhưng tốt nhất vào lúc cây sắp ra hoa hoặc đang ra hoa. Lá hái xong, cần phơi ngay cho khô; để lâu, tỷ lệ hoạt chất bị giảm sút. Cần phơi ngoài gió hay ở nhiệt độ thấp hơn 60o. Trúc đào mọc ở ta thường chỉ ít lá vào các tháng 1-2-3. Lá chỉ nên thu hái vào mùa hè, mùa thu. Các mùa khác cho ít hoạt chất.

C. THÀNH PHẦN HÓA HỌC

Trong lá trúc đào, người ta nghiên cứu thấy có 4 glucozit chủ yếu là oleandrin, neriin, neriantin, adynerin.

1. Olecandrin còn gọi là  nerolin (Liên Xô) hay folinerin (theo tên gọi của Schering) hoặc eleandrozit có công thức nguyên là C32H48O9. trong lượng phân tử 576,70 là một glucozit không màu, có tinh thể hình kim, vị rất đắng. Độ chảy 245-250o; năng suất quay cực αD= -50-51o1 (trong rượu metylic). Ít tan trong nước và trong benzen, tan trong clorofoc, trong cồn etylic và metylic, nhưng độ tan trong rượu metylic kém hơn trong rượu etylic. Cho phản ứng Legal và phản ứng Keller-Kiliani.

Thủy phân axit (dùng axit clohydric 0,1 N, trên nồi cách thủy trong 2 giờ) sẽ cho phần không đường gọi là oleandrig nin (hay 16 axetyl gitoxigenin) và một chất đường đặc biệt gọi là oleandroza.

Nhưng nếu dùng dung dịch 0,5N HCI thủy phân trong 4 giờ trên nồi cách thủy thì ta sẽ được chất dianhydrogi toxigenin. Còn nếu dùng dung dịch kiềm nhẹ để thủy phân, thì ta sẽ thu được gốc desaxetyloleandrin.

Ta có thể biểu thị các phản ứng trên như sau:

IMG

2. Neriin còn gọi là neriozit. Đây không phải là một nguyên chất, mà là một hỗn hợp glucozit trợ tim không có tinh thể, bột vô định hình màu vàng, tan trong nước và trong rượu, không tan trong ête etylic và ête dầu hỏa, clorfoc, benzcn, axetat etyl; dung dịch loãng trong nước rất dễ cho bọt, vị đắng; đun tới 160-170o thì phân giải, năng suất quay cực αD= -20o (C=5% trong cồn), cho phản ứng Legal, không cho phản ứng Keller-Kiliani, mặt phân cách giữa hai lớp dung dịch có màu đỏ, lớp axit axetic có màu vàng xanh. Sau khi thủy phân bằng dung dịch 3 HCI đun sôi thì được 37-39% chất genin vô định hình, trong đó chỉ có 7-10% là không tan trong clorofoc. Do đó Zabolotnaia là người nghiên cứu chất này đã đi đến kết luận là ít nhất neriin gồm hai chất khác nhau. Nerrin chỉ có tác dụng trợ tim yếu.

IMG

3. Adynerin là một glucozit trợ tim có tinh thể, không tan trong nước và benzen, tan trong nước clorofoc và cồn cao độ (97o) khó tan trong cồn metylic. Độ chảy 219-220o. Năng suất quay cực αD= +9o38, trong công thức có một nối kép giữa cacbon 8 và 9, do đó không có tác dụng trợ tim.

4. Neriantin là một glucozit có tinh thể hoặc vô định hình, vị đắng, tan trong nước và cồn, không có tác dụng trợ tim. Công thức cấu tạo chưa được xác định rõ ràng, trong phân tử có ai nối kép nhưng vị trí chưa được xác định.

Cách chế tạo oleadrin. Căn cứ vào những phương pháp giới thiệu trong các tài liệu và đặc biệt phương pháp của Liên Xô cũ chúng tôi đã chế được chất oleandrin từ lá cây trúc đào mọc ở Việt Nam (Đỗ Tất Lợi, 1955. Tạp chí Y học Việt Nam 2. 12: 41-a42). Phương pháp đó có thể tóm tắt như sau:

IMG

   Giai đoạn chiết suất. Lá trúc đào mới hái về, phơi khô trong át cho tới khi tỷ lệ nước chỉ còn 12-14%; thái thành từng miếng nhỏ, kích thước 2-5mm; không nên tán thành bột nhỏ, cũng không nên để nguyên cả lá to vì như vậy tạp chất sẽ nhiều, khó tinh chế mà hoạt chất ra không hết. Ngâm 5kg lá thái nhỏ như trên với 50 lít rượu 25o trong 20 giờ; sau đó lấy cả được chừng 25-27 lít; sau đó ép thì sẽ được thêm chừng 18-20 lít nữa.

   Giai đoạn loại tạp chất. Đổ 45 lít rượu trên vào vại sành sức chứa chừng 75 lít; đổ dần vào đó nửa lít dung dịch chì axetat 30%. Sau đó phải thử xem đã hết tạp chất chưa, nghĩa là đem lọc một ít nước tên và thêm một ít chì axetat nữa, nếu còn thấy đục thì phải cho thêm chì axetat nữa. Làm như vậy cho đến khi dung dịch lọc, thêm chì axetat không còn kết tủa nữa; để yên một đêm, gạn lấy nước trong, lọc qua phễu Buchner, sau cùng rửa chất cặn trên phễu bằng 2 lít rượu 25o. Dồn các nước trong lại và đổ dần vào đó 2 lít dung dịch natri sunfat 15%, mỗi lần chừng nửa lít và quấy cho đều; lọc qua giấy; thử xem phần lọc thêm dung dịch natri sunfat vào xem còn đục không. Nếu còn đục thì phải thêm cho đến khi hết chì axêtat.

   Giai đoạn tinh chế. Cho các dung dịch đã loại tạp chất vào một bình thuỷ tinh đặt trên nồi cách thuỷ và đun để thu hồi cồn. Nhiệt độ trong bình phải luôn luôn ở 50-55o. Nếu cao quá glucozit sẽ hỏng. Muốn vậy phải cất trong chân không 700-720mm thuỷ ngân. Đem cô còn chừng 8 lít, để nguội, vớt những cục glucozit thô ra. Hiệu suất chừng 48-50g glucozit thô. Cho chỗ glucozit thô này vào một bình nửa lít và một số cồn 70o (chừng 200ml), đặt bình này trong nồi cách thuỷ và lắc cho đến khi tan hết. Lọc và cho vào tủ lạnh trong 2 ngày. Neriolin sẽ kết tinh, nhưng chưa được tinh khiết lắm. Cần phải kết tinh hai lần nữa. Muốn vậy hoà nerolin nói trên trong cồn 50o (chừng 200ml) lọc và để vào tủ lạnh. Làm lại một lần thứ hai nữa, neiolin sẽ rất tinh khiết.

   Hiệu suất chừng 5-6g neioloin; tính ra cứ mỗi kg lá cây trúc đào khô sẽ được 1g neriolin nghĩa là hiệu suất 0,1%. Có khi chỉ được 0,05%.

D. TÁC DỤNG DƯỢC LÝ VÀ ĐỘC TÍNH

Độc tính của lá trúc đào đã được biết từ lâu.

Tại châu Âu, người ta kể những trường hợp lính vùng đảo Coocsơ (Corse, một đảo thuộc miền Nam nước Pháp) đã bị ngộ độc chết do ăn chả dùng cành cây trúc đào xiên vào thịt nướng. Có những người đã ngộ độc nặng do uống nước đựng trong chai nút bằng thân cây trúc đào, hay do uống nước suối rễ cây trúc đào mọc ở gần. Nhân dân tỉnh Nisơ (Nice) đã dùng bột vỏ thân và bột gỗ trúc đào để đánh bả chuột.

- Tại Á Đông, trúc đào được ghi trong cuốn Y học nhập môn của Lý Duyên như sau: Chữa những người tự nhiên mặt đỏ bừng (bạo xích), có nước tích tụ trong ngũ tạng làm bụng to. Lợi tiểu tiện.

- Trong Y học, trúc đào được dùng lần đầu tiên vào khoảng năm 1866 sau khi được nhà dược lý học người Nga E. B. Pelikan nghiên cứu, nhưng rồi lại bị quên đi. Đến năm 1936, Viện nghiên cứu cây thuốc và tinh dầu ở Liên Xô cũ nghiên cứu lại và hiện nay hoạt chất của trúc đào là chất aneriolin được ghi làm vị thuốc chính thức trong Dược điển Liên Xô in lần thứ 9 (1961).

- Theo sự nghiên cứu về dược lý của các nhà dược học Liên Xô cũ thì neriolin có tác dụng rất mạnh, có thể thay được digitalin và strophantin để chữa các bệnh về tim. So với digitalin, neriolin (oleandrin) có những ưu điểm sau đây:

   1. Hấp thụ nhanh khi qua bộ máy tiêu hoá nên không bị các men và axit của bộ máy tiêu hoá phá huỷ.

   2. Tích luỹ rất ít.

   3. Làm đi tiểu nhiều.

   - Trong tháng 10 đầu năm 1962, các bác sĩ Vũ Đình Hải và Dương Hoàng Trọng đã dùng chất neriolin do Bộ môn dược liệu Trường đại học y dược khoa Hà Nội sản xuất để điều trị 77 bệnh nhân suy tim ở Bệnh viện Việt-Tiệp đã đi tới một số kết luận sau đây:

   Tác dụng trợ tim của neriolin rõ rệt nhất đối với triệu chứng khó thở. Đánh giá triệu chứng chủ quan này có phần khách quan ở chỗ nó đo được khả năng lao động vì khi bệnh nhân đỡ khó thở thì họ có thể làm việc được và sống cuộc đời bình thường. Vì phần lớn bệnh nhân thấy neriolin làm dễ thở rõ rệt nên họ tự động tăng liều lượng trong những ngày phải làm việc nhiều và để dành thuốc những ngày nghỉ ngơi.

   Tác dụng trợ tim đến rất nhanh, thường chỉ 2-3 giờ sau khi uống thuốc là dễ thở ngay. Một bệnh nhân là thợ cắt tóc, chỉ cần 30 giọt là có thể dậy làm việc được ngay. Sự nhanh chóng này được nhiều tác giả đã nhận thấy và Henler đã mệnh danh neriolin là uabain uống được. Nhờ tính chất này, bệnh nhân có thể tự mình tìm ra liều thích hợp...

   Neriolin là một thuốc trợ tim có hiệu quả nhanh chóng, không tích luỹ, dễ sử dụng và đối với bệnh van tim thì có thể so sánh với các loại thuốc trợ tim cổ điển. Điều trị phải liên tục và đủ liều nghĩa là khoảng 0,4-1,2mg mỗi ngày.

   Neriolin đặc biệt thích hợp với điều trị duy trì lâu dài và ngoại trú ở các phòng khám tim cho các bệnh nhân bị di chứng của thấp khớp cấp mất bù, là loại bệnh tim phổ biến nhất ở Việt Nam hiện nay (Tạp chí y học Việt Nam số 3 năm 1963).

E. CÔNG DỤNG VÀ LIỀU DÙNG

Hiện nay người ta chỉ dùng lá cây trúc đào để làm nguyên liệu chế neriolin làm thuốc chữa tim.

Neriolin dùng dưới hình thức dung dịch rượu và thuốc viên.

Dung dịch rượu 1/5.000 chế như sau:

Neriolin 0,20g, cồn 70o. Đun cách thuỷ cho đến khi tan hết neriolin. Để nguội, thêm cồn 70o vào cho đủ 1 lít. Lọc qua giấy. Để vào các lọ màu, mỗi lọ 10-15 hay 20ml. Phải bảo quản ở nơi mát. Ngày uống 3-4 lần, mỗi lần 10 (X) giọ.

Viên neriolin: Mỗi viên chứa 0,1 hay 0,2mg. Ngày 3 lần, mỗi lần 1 viên 0,0001g.

Trên nhãn thuốc neriolin của Liên Xô, nhiều khi người ta còn ghi đơn vị mèo KE (1) hay đơn vị ếch LED (2), ví dụ 1ml dung dịch có 7-8 đơn vị ếch hoặc 1 viên 0,0001g có 3,5 đến 4 đơn vị ếch.

Theo kinh nghiệm điều trị ở Bệnh viện Việt - Tiệp Hải Phòng, ngày dùng khoảng 0,4-1,2mg. Có thể dùng liên tục vì thuốc thải trừ nhanh chóng, có bệnh nhân dùng hằng năm mà không có triệu chứng ngộ độc.

Bản thân chất neriolin phải bảo quản theo chế độ thuốc độc bảng A, nhưng dung dịch và viên neriolin thì theo chế độ thuốc độc bảng B.

Chú thích (1): Đơn vị mèo theo dược điển Liên Xô, viết tắt là = mèo; = đơn vị; = tác dụng, là liều tối thiểu gây tim ngừng đập ở ở điều kiện thí nghiệm đối với mèo đã được gây mê.

Chú thích (2): Đơn vị ếch viết tắt là = ếch = đơn vị; = tác dụng, là liều tối thiểu gây ngừng tim ở thẻ tâm bóp đối với đa số ếch thí nghiệm (thử trên 5 con ếch) thí nghiệm so sánh với thuốc tiêu chuẩn trong cùng một lúc, một ngày.

Nguồn: Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tác giả: Giáo sư Tiến sĩ khoa học ĐỖ TẤT LỢI



Xin vui lòng ghi rõ nguồn http://www.dotatloi.com khi phát hành lại thông tin.


Tuyên bố miễn trừ trách nhiệm:
Thông tin trên www.dotatloi.com chỉ phục vụ nghiên cứu học tập và mở rộng kiến thức. Không sử dụng làm căn cứ để tiến hành chẩn trị trên lâm sàng. Thông tin trên www.dotatloi.com có thể được trích dẫn, thu thập từ các ấn phẩm, các trang tin điện tử liên quan trong nước và ngoài nước. Nếu phát sinh vấn đề bản quyền, kính đề nghị phản hồi cho chúng tôi.

Viết bình luận

Để thuận tiện cho việc đăng tải, xin vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.
Chúng tôi mong muốn nhận được những bình luận theo hướng mở rộng hoặc bổ sung thông tin liên quan đến bài viết.
Chúng tôi sẽ khóa những bình luận có ngôn từ mang tính kích động hoặc bất nhã.

focus Màn kinh tử
02/03/2025 09:07 CH

- 蔓荊子. Còn gọi là kinh tử, vạn kim tử, quan âm, thuốc kinh, thuốc ôn, đẹn ba lá. Tên khoa học Vitex trifoolia L. Thuộc họ Cỏ roi ngựa (Verbenaceae). Màn kinh tử (Fructus Viticis) là quả chín phơi hay sấy khô của cây quan âm hay cây màn kinh, còn gọi là cây ...

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu
Tên vị thuốc Mô tả
Ô dược - 烏葯 (乌药). Còn gọi là cây dầu đắng, ô dược nam. Tên khoa học Lindera myrrha (Lour.) Merr. (Laurus myrrha Lour., Litsea trinervia Pers., Tetratthersa trinervia Spreng., Daphnidium myrrha Nees.). Thuộc họ Long não (Lauraceae). Ô dược (Radix Linderae) là rễ phơi hay sấy khô của cây dầu đắng hay ô dược nam.
Ô rô - 大薊 (大蓟). Còn gọi là đại kế, thích kế, thiết thích ngãi, dã thích thái, thích khải tử, hổ kế, mã kế, dã hồng hoa, sơn ngưu bàng, hê hạng thảo. Tên khoa học Cncus japonicus. (DC.) Maxim (Cirsium japonicum DC.). Thuộc họ Cúc (Compositae). Đại kế (Herba et Radix Cirsii japonici) là toàn cây ô rô phơi hay sấy khô, bao gồm thân, cành, lá, cụm hoa và rễ.
Ổi - 番石榴. Còn gọi là ủi, phan thạch lựu, gouavier. Tên khoa học Psidium guyjava L. (P. pomiferum Linn. Psidium Pyriferum L.). Thuộc họ Sim (Myrtaceae).
Ớt - 辣椒. Còn gọi là ớt tàu ớt chỉ thiên, ớt chỉ địa, lạt tiêu. Tên khoa học Capsicum annuum L. Thuộc họ Cà (Solanaceae). Ớt (Fructus Capsici) là quả chín phơi khô của cây ớt Capsicum annuum L. và những cây ớt khác. Ta còn dùng cả là tươi (Folium Capsici). Tên khoa học do chữ Capsa là túi, ý nói quả ớt giống cái túi, annnuum có nghĩa là mọc hàng năm.
Phan tả diệp - 番瀉葉 (番写叶). Còn gọi là hiệp diệp phan tả diệp, tiêm diệp, phan tả diệp, séné. Tên khoa học Cassia angustifolia Vahl và Cassia acutifolia Delile. Thuộc họ Vang (Caesalpiniaceae). Phan tả diệp (Folium sennae) là lá phơi hay sấy khô của cây phan tả diệp lá hẹp Cassia angustifolia Vahl hay cây phan tả diệp lá nhọm Cassia acutifolia Delile, đều thuộc họ Vang (Caesalpiniaceae). Phan tả diệp là một vị thuốc thường dùng trong cả đông y và tây y, và là một vị thuốc phải nhập. Tả diệp = lá gây đi ỉa lỏng, mọc ở nước Phiên (một nước, ở biên giới Trung Quốc xưa kia) đọc chệch là Phan.
Phèn đen - 龍眼睛 (龙眼睛). Còn gọi là nỗ. Tên khoa học Phyllanthus reticulatus Poir. Thuộc họ Thầu dầu (Euphorbiaceae).
Phòng kỷ - 粉防己, 廣防己 (广防己), 木防己. Còn gọi là hán phòng kỷ, quảng phòng kỷ, mộc phòng kỷ, phấn phòng kỷ, hán trung phòng kỷ. Phòng có nghĩa là phòng ngừa, kỷ là cho mình; ý nói là vị thuốc có tác dụng phòng ngừa tật bệnh cho mình. Phòng kỷ là tên dùng để chỉ nhiều vị thuốc, nguồn gốc thực vật khác hẳn nhau. (1) Phấn phòng kỷ hay phòng kỷ: Radix Stephaniae là rễ phơi hay sấy khô của cấy phấn phòng kỷ (Stephania tetrandra S. Moore) thuộc họ Tiết dê (Menispermaceae). (2) Quảng phòng kỷ hay mộc phòng kỷ, đẳng phòng kỷ, phòng kỷ (Quảng Tây): Là rễ phơi hay sấy khô của cây quảng phòng kỷ (Aristolochia westlandi Hemsl.) thuộc họ Mộc thông (Aristolochiaceae). (3) Hán trung phòng kỷ: Radix Aristolochiae heterophyllae là rễ phơi hay sấy khô của cây hán trung phòng kỷ hay thành mộc hương (Aristolochia heterophylla Hemsl.) cùng họ Mộc thông (Aristolochiaceae). (4) Mộc phòng kỷ: Là rễ phơi hay sấy khô của cây mộc phòng kỷ (Cocculus trilobus DC.) thuộc họ Tiết dê (Menispermaceae).
Phù dung - 木芙蓉. Còn gọi là mộc liên, địa phù dung. Tên khoa học Hibiscus mutabilis L. (Hibiscus sinensis Mill). Thuộc họ Bông (Malvaceae). Ta thường dùng hoa và lá tươi hoặc khô của cây phù dung để làm thuốc.
Phục linh - 茯苓. Còn có tên là bạch phục linh, phục thần. Tên khoa học Poria cocos Wolf. (Pachyma hoelen Rumph.). Thuộc họ Nấm lỗ (Polyporaceae).
Phượng nhỡn thảo - 臭椿. Còn gọi là Faux vernis du Japon, Ailante. Tên khoa học Ailantus glandulosa Desf. Thuộc họ Thanh thất (Simarubaceae).
Preah phneou Còn gọi là Chiều liêu, preas phnau, pras phneou (Campuchia). Tên khoa học Terminalia nigrovenulosa Pierre. Thuộc họ Bàng (Combretaceae). Preah phneou là tên Campuchia của một loài chiều liêu. Vì tên này được giới thiệu dùng trong thuốc dầu tiên cho nên cứ giữ tên này.
Qua lâu nhân - 瓜婁仁. Còn gọi là hạt thảo ca, qua lâu, quát lâu nhân. Tên khoa học Trichosanthes sp. Thuộc họ Bí (Cucurbitaceae). Qua lâu nhân, qua lâu (Semen Trichosanthis) là hạt phơi hay sấy khô của nhiều loài Trichosanthes như Trichosanthes kirilowii Maxim, Trichosanthes multiloba Miq. v.v...đều thuộc cùng một họ Bí (Cucurbitaceae). Ngoài vị qua lâu nhân, cây qua lâu hay thao ca còn cho các vị thuốc khác sau đây: (1) Qua lâu bì Pericarpium Trichosanthis là vỏ quả phơi hay sấy khô. (2) Thiên hoa phấn hay qua lâu căn (Radix Trichosanthis) là rễ phơi hay sấy khô của cây thao ca hay qua lâu.
Quán chúng - 貫眾. Quán chúng là một vị thuốc tương đối hay dùng trong Đông y. Tuy nhiên nguồn gốc rất phức tạp và chưa thống nhất. Chúng tôi giới thiệu tóm tắt một số tài liệu về nguồn gốc và công dụng của vị quán chúng để chúng ta tham khảo và chú ý nghiên cứu để chỉnh lý lại trên cơ sở thực tế sử dụng ở Việt Nam ta. "Quán" là xâu, chuỗi; "chúng" là nhiều, vì vị quán chúng trông giống như nhiều cành xâu vào gốc cây cho nên đặt tên như vậy. Trong sách vở, người ta mô tả, quán chúng là một thứ cây mọc ở khe núi, hình giống đuôi chim chả, da đen, thịt đỏ.
Quít - Trần bì - 橘 - 橘皮. Còn gọi là quyết, hoàng quyết, trần bì, thanh bì, mandarinier (Pháp). Tên khoa học Citrus deliciosa Tenore, Citrus nobilis var. eliciosa Swigle. Thuộc họ Cam quít (Rutaceae). Cây quít cho ta các vị thuốc sau đây: 1. Trần bì (Pericarpium Citri deliciosa) là vỏ quít phơi càng để lâu càng coi là quý và tốt. 2. Quất hạch (Semen Citri diliciosae) là hạt quít phơi khô. 3. Thanh bì (Pericarpium Citri immaturi) vỏ quả quít còn xanh.
Rau cần tây - 旱芹. Tên khoa học Apium graveolens L. Thuộc họ Hoa tán Apiaceae (Umbelliferae).
Rau đắng - 萹蓄. Còn gọi là biển súc, cây càng tôm, cây xương cá. Tên khoa hoc Polygonum aviculare L. Thuộc họ Rau răm (polygonaceae).
Rau đay - 長蒴黃麻 (长蒴黄麻). Còn gọi là rau đay quả dài, Corète potagère. Tên khoa học Corchorus olitorius L. Thuộc họ Đay (Tiliaceae).
Rau dừa nước - 過塘蛇 (过塘蛇). Còn gọi là thủy long, du long thái. Tên khoa học Jussiaea repens L. (Cubospermum palustre Lour.). Thuộc họ Rau dừa nước Oenotheraceae hoặc (Onagraceae).
ĐỐI TÁC - LIÊN KẾT
[ Lên đầu trang ]