Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu

CÂY THÔNG THIÊN - 黃花夾竹桃

Còn gọi là hoàng hoa giáp trúc đào, laurier jaune, -noix de serpent, yellow oleander, bois à lait.

Tên khoa học Thevetia neriifolia Juss. (Cerbera thevetia L., Cerbera peruviana Pers).

Thuộc họ Trúc đào (Apocynaceae).

CÂY THÔNG THIÊN, 黃花夾竹桃, hoàng hoa giáp trúc đào, laurier jaune, noix de serpent, yellow oleander, bois à lait, Thevetia neriifolia Juss., Cerbera thevetia L., Cerbera peruviana Pers, họ Trúc đào, Apocynaceae

Cây thông thiên - Thevetia neriifolia

A. MÔ TẢ CÂY

Cây nhỡ cao chừng 4-5m; thân nhẵn, trên cành mang nhiều sẹo của lá đã rụng.

Lá hình mác, hẹp, dài 8-15cm, rộng 4-7mm, đơn, nguyên, nhẵn, đầu nhọn, mặt trên bóng mặt dưới mờ: Gân giữa nổi rõ, gân phụ không rõ.

Hoa màu vàng tươi rất đẹp và thơm to, mọc thành xim ở gần ngọn.

Quả rất đặc biệt, hạch hình 3 cạnh dài 3 đến 5cm, dầy chừng 2-2,5cm, hơi chia thành 4 múi; lúc chưa chín có màu xanh bóng, khi chín có màu đến bóng, nhưng dăn lại, và rất mềm. Hạch hình ba cạnh rất cứng rắn, màu vàng nhạt bẩn, có khi hơi nâu hay đen nhạt, lắc sẽ thấy tiếng hạt lúc lắc, trong chứa 1 hay 2 hạt; hạt dài khoảng 12mm, rộng 12mm, dày 5mm, màu trắng vàng nhạt, vị rất đắng, hơi có cảm giác tê.

Toàn cây có nhựa mủ trắng. Khi bẻ cành hay châm vào quả, ta thấy nhựa mủ khi mới chảy ra có màu trắng sau chuyển màu đen. Vì vậy khi cắt các bộ phận của cây, ta thấy vết cắt chóng chuyển màu đen.

B. PHÂN BỐ, THU HÁI VÀ CHẾ BIẾN

Cây này vốn nguồn gốc ở vùng nhiệt đới châu Mỹ, sau đó di thực và châu Á, châu Phi.

Được trồng làm cảnh tại nhiều tỉnh ở Việt Nam (mọc rất dễ dàng) trồng bằng hạt. Tại gốc cây lớn, người ta dùng thường thấy nhiều cây con; có thể đánh đi trồng nơi khác, nên trồng tập trung từng cụm từ 5 đến 10 cây một chỗ để khi thu hoạch hạt được dễ dàng và đỡ tốn kém.

Nên trồng tại các công viên, vừa làm cảnh đẹp, vừa có nguyên liệu để chế thuốc.

Ta có thể dùng hạt, vỏ hay lá, nhưng chủ yếu là hạt. Mùa quả từ tháng 10 đến tháng 3.

C. THÀNH PHẦN HÓA HỌC

Trong hạt thông thiên có những chất sau đây:

   1. Chất dầu 35-41% (phương pháp ép) hoặc 57% (phương pháp dùng dung môi). Dầu có mùi thơm, gần như mùi hạnh nhân. Tỷ trọng 0,914 ở 25o. Ở nhiệt độ này dầu rất trong nhưng ở nhiệt độ 15o dầu trở nên sền sệt và ở nhiệt độ 13o dầu đặc lại.

   Theo Oudemans, dầu gồm 63% triolein, 37% tripanmatin và tristcarin.

   Ngoài ra còn một ít axit lineolic và axit myristic, rất ít axit arachidic.

   Có tác giả cho rằng dầu hạt thông thiên có độc, gây nôn và đi ỉa lỏng (Short in Dymock, Phanrmacographia indica); nhưng một số tác giả khác (De Vrij, Boulay ) lại cho rằng dầu này không có độc nếu chế tinh khiết; sở dĩ có hiện tượng ngộ độc là do các chất độc lẫn vào khi ép hay chiết xuất.

   2. Một số chất heterozit, trong đó được biết rõ nhất là các chất tevetin và nerifolin.

   a/ Tevetin - C42H66O18.3H2O - trọng lượng phân tử 912,9 là một chất có tinh thể, không màu, không mùi, vị rất đắng. Tan trong 12 phần nước ở nhiệt độ 15o, không tan trong axeton, clorofoc và ête. Độ chảy 192-193o. Năng suất quay cực ở 20o là -62o5 (trong rượu metylic).

   Thủy phân tevetin sẽ cho một phân tử tevetoza, 2 phân tử glucoza và một phần không đường (genin hay aglycon). Phần không đường của tevetin rất giống phần không đường của digitalin; nhưng trong khi ta thủy phân digitalin bằng tác nhân lý hoá nhẹ, digitalin dễ dàng giải phóng 3 chất đường digitoxoza và digitoxigenin không tan, trái lại trong trường hợp đó đường tevetoza là một đường đặc hiệu của tevetin dính chặt với phần không đường làm cho tevetin có độ tan nhiều hơn, do đó tác dụng nhanh hơn, ít tích luỹ hơn và cũng ít độc hơn digitalin. Tỷ lệ tevetin chiết suất được từ 3-5%.

   Tevetin cho phản ứng Legat dương tính mà không cho phản ứng Keller-Kiliani.

   b/ Neriifolin và dẫn xuất monoaxetyl của neriifolin.

   Frèes Jacques có lấy được từ thông thiên một glucozit mới với tỷ lệ 3% có tác dụng giống như digitalin. Người ta đã xác định đây chỉ là hỗn hợp bằng nhau của 2 chất neriifolin và dẫn xuất monoaxetyl của neriifolin.

   Neriifolin - C30H46O8 - có độ chảy 208o, năng suất quay cực ở nhiệt độ 20o là -49o5 (trong rượu metylic). Kết tinh trong etyl axetat thành hình giác trụ, vị đắng. Khi ta axetly hóa trong môi trường pyrdin sẽ được diaxetyl neriifolin có độ chảy 134o, năng suất quay cực ở 20oC là -80o (trong rượu metylic).

IMG

   Trong rượu kali hydroxyt N/10, chất neriifotin đồng phân hóa và cho isoneriifolin có độ chảy 251o, năng suất quay cực ở 20oC là -72o (trong rượu metylic).

   Thủy phân, neriifolin cho một genin vô định hình và một đường là tevetoaza (một chất metyl metoxypentoza).

   Chất tevetin có trong hạt và vỏ cây. Trong lá và vỏ quả không có. Ngoài tevetin và lá và vỏ quả không có. Ngoài tevetin và neriiolin ra, Warden (1881) còn lấy ra từ hạt và vỏ một chất cho màu xanh khi thêm axit, đặc biệt axit clohydric. Khi ta giã vỏ hay hạt vồi nhỏ axit clohydric vào ta sẽ thấy màu xanh. Phản ứng nay có thể dùng để phát hiện ngộ độc do thông thiên: Chiết suất các chất trong dạ dày bằng rượu, rồi bằng cồn amylic, cô để loại dung môi, rồi thêm axit clohydric, sẽ thấy hiện màu xanh, nếu có hạt thông thiên.

   Năm 1958 chúng tôi chiết được từ hạt thông thiên mọc ở Việt Nam chất tevetin với hiệu suất 0,5-2,5% và chất dầu với hiệu suất 40-50% (Đỗ Tất Lợi - Hoàng Xuân Vinh - Kỷ yếu công trình đại học y dược Hà nội, 1958: 121-123).

D. TÁC DUNG DƯỢC LÝ

Chất tevetin đã được nghiên cứu nhiều về mặt dược lý. Nói chung, nó có tác dụng như những chế phẩm của thuốc tim Digitalis. Nhưng do độ tan và sự bền vững của nó trong cơ thể, độ độc thấp, do tác dụng nhanh, dù uống hay tiêm mạch máu, và do nó không tích luỹ trong cơ thể, dùng điều trị hàng tháng cũng không có hiện tượng ngộ độc.

Đơn vị mèo của tevetin (tức là lượng tevetin tinh trên 1kg cơ thể mèo tiêm liên tục gây ngừng tim) là 0,889mg trên 1kg cơ thể. Như vậy so với digitalin, nó ít độc hơn 2 lần và 3 lần ít độc hơn so với nabain (uabain lấy ở hạt cây Strophanthus gratus).

Khi mới tiêm vào, tevetin gây tim đập chậm và làm cho sự co bóp của tim mạch lên, như vậy chứng tỏ nó tác dụng nhanh. Nếu tiếp tục tiêm, sẽ thấy xuất hiện các hiện tượng ngộ độc: Tim đập nhanh và rung tâm thất (fibrillation ventriculaire).

Nhưng hiện tượng ngộ độc do tevetin có thể hết dù đã xuất hiện những triệu chứng ban đầu, không giống như đối với digitalin. Vì digitalin gây ra những hiện tượng tích luỹ của nó trong cơ thể.

Liều tối thiểu gây tim bóp trên tim ếch là 0,004 đến 0,005mg đối với 1g trọng lượng của ếch.

Trên toàn thân, tùy theo giống vật thí nghiệm, với liều rất thay đổi từ con vật này sang con vật khác trong cùng một loài, teve tim có thể gây kích thích cơ trơn của ruột. Hiện tượng buồn nôn và nôn mửa chỉ xuất hiện (trừ trường hợp nhậy cảm đặc biệt) với liều gần độc (dose subléthale). Những liều bằng 9/10 liều độc gần độc cũng được bài tiết với cùng một tốc độ đủ cho dưới hình thức nào cũng vậy: uống tiêm dưới da hay tiêm mạch máu thì điều tiết ra ngoài, sau 5 giờ 47%, 2 giờ 71%, sau 24 giờ 84%.

Trên người không có thương tổn gì ở tim, với liều 1 đến 5 đơn vị mèo nghĩa là 0,889 đến 4,445mg tevetin gây tim đập chậm (9 đến 30 lần đập trong 1 phút. Với liều 2 đơn vị mèo, mức tim đập chậm tối đa và xuất hiện trong vòng 2 đến 3 giờ. Đối với một số người, với liều 3 đơn vị mèo có hiện tượng nóng ở tim.

E.  CÔNG DỤNG VÀ LIỀU DÙNG

Chất tevetin đã được một hãng sản xuất của Pháp chế thành biệt dược làm thuốc chữa tim dưới dạng dung dịch 1%., 1ml tương ứng với 30 giọt và 1mg tevetin. Ngày uống từ 1 đến 2mg (30 đến 60 giọt một ngày) chia làm 2 hay 3 lần uống. Có thể dùng lâu vì thuốc không tích luỹ. Đóng thành từng chai 20ml.

Có loại chế thành thuốc tiêm, một hộp 6 ống, mỗi ống 2ml tương ứng với một mg tevetin. Ngày tiêm 1-2 ống (tiêm mạch máu).

Dùng trong những trường hợp kém tim, tim đập loạn nhịp, viêm tâm cân, tim suy nhược sau khi mổ hay sau khi mắc bệnh nhiễm trùng; đau van tim, nhất là trường hợp này, tevetin tỏ ra hơn hẳn digitalin.

Có thể dùng cho những trường hợp không chịu thuốc digitalin và uabain hoặc luân phiên với digitalin và uabain.

Ngoài việc dùng chất tevetin chiết từ hạt, có nơi còn dùng hạt giã nát để làm thuốc trừ sâu (hạt giã nát, ngâm với nước, thêm vào một lượng xà phòng bằng trọng lượng hạt. Phun lên sâu bọ. Số lượng tuỳ theo sâu cánh cứng hay cánh mềm.

Cây và thuốc chế từ thông thiên có chất rất độc; cần chú ý tránh gây ngộ độc.

Nguồn: Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tác giả: Giáo sư Tiến sĩ khoa học ĐỖ TẤT LỢI



Xin vui lòng ghi rõ nguồn http://www.dotatloi.com khi phát hành lại thông tin.


Tuyên bố miễn trừ trách nhiệm:
Thông tin trên www.dotatloi.com chỉ phục vụ nghiên cứu học tập và mở rộng kiến thức. Không sử dụng làm căn cứ để tiến hành chẩn trị trên lâm sàng. Thông tin trên www.dotatloi.com có thể được trích dẫn, thu thập từ các ấn phẩm, các trang tin điện tử liên quan trong nước và ngoài nước. Nếu phát sinh vấn đề bản quyền, kính đề nghị phản hồi cho chúng tôi.

Viết bình luận

Để thuận tiện cho việc đăng tải, xin vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.
Chúng tôi mong muốn nhận được những bình luận theo hướng mở rộng hoặc bổ sung thông tin liên quan đến bài viết.
Chúng tôi sẽ khóa những bình luận có ngôn từ mang tính kích động hoặc bất nhã.

focus Xạ can
13/03/2025 11:45 CH

- 射干. Còn gọi là cây rẻ quạt, la cho (Lang-biang), Iris tigré. Tên khoa học Belamcanda sinensis (L) DC. (Pardanthus sinensis Ker., Ixia sinensis Murr.). Thuộc họ Lay ơn (Iridaceae). Xạ can (Rhizoma Belamcandae) là thân rễ phơi hay sấy khô của cây rẻ quạt.

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu
Tên vị thuốc Mô tả
Cổ giải Tên khoa học Milletia sp. Thuộc họ Cánh bướm Fabaceae (Papilionaceae).
Cỏ mần trầu - 牛筋草. Còn gọi là ngưu cân thảo, sam tử thảo, tất suất thảo, cỏ vườn trầu, cỏ chỉ tía, cỏ dáng, cỏ bắc, cheung kras (Campuchia), mia pak kouay (Lào). Tên khoa học Eleusine indica (L.) Gaertn. (Cynosurus indica L.). Thuộc họ Lúa Poaceae (Gramineae).
Cỏ may - 竹節草 (竹节草). Còn gọi là bông cỏ, thảo tử hoa, trúc tiết thảo. Tên khoa học Chysopogon aciculatus (Retz.) Trin. (Andropogon aciculatus Retz. Rhaphis trivialis Lour.). Thuộc họ Lúa Poaceae (Gramineae).
Cỏ nhọ nồi - 墨旱蓮 (墨旱莲). Còn có tên là cây cỏ mực, hạn liên thảo. Tên khoa học Eclipta alba Hassk. (Eclipta erecta Lamk.). Thuộc họ Cúc Ssteraceae (Composittae). Ta dùng toàn cây nhọ nồi (Herba Ecliptae) tươi hoặc khô.
Cỏ sữa nhỏ lá - 千根草 (小飛揚草). Tên khoa học Euphorbia thymifolia Burm (E. prostrata Grah). Thuộc họ Thầu dầu (Euphorbiaceae). Ta dùng toàn cây phơi khô của cây cỏ sữa nhỏ lá.
Cỏ thiên thảo - 防風草 (防风草). Còn gọi là cây cứt lợn, kiếm, san nga (luang Prabang). Tên khoa học Anisomeles ovata R. Br. Thuộc họ Hoa môi Lamiaceae (Labiatae).
Cỏ tranh - 白茅根. Còn gọi là bạch mao. Tên khoa học Imperata cylindrica Beauv. Thuộc họ Lúa Poaceae (Gramineae). Rễ cỏ tranh hay bạch mao căn (Rhizoma Imperatae) là thân rễ phơi hay sấy khô của cây tranh hay cỏ tranh.
Cốc tinh thảo - 谷精草. Còn gọi là cỏ đuôi công, cây cốc tinh, cỏ dùi trống. Tên khoa học Eriocaulon sexangulare L. Thuộc họ Cốc tinh thảo (Eriocaulaceae). Cốc tinh thảo (Scapus Eriocauli) là cán mang hoa phơi hay sấy khô của cây cốc tinh thảo hay cây cỏ đuôi công, hay cây cốc tinh. Ta còn dùng cán mang hoa của một số loài Eriocaulon khác có hình dáng giống nhau. Tên cốc tinh vì người ta thấy sau khi lúa đã gặt rồi thì cây này xuất hiện, do đó cho là cốc tinh của lúa mọc lên.
Cói - 茳芏. Còn gọi là lác. Tên khoa học Cyperus malaccensis Lamk. Thuộc họ Cói (Cyperaceae).
Côn bố - 昆布. Còn gọi là hải đới, nga chưởng thái. Côn bố là toàn cây khô của một loại tảo dẹt (có tên khoa học là Laminaria japonica). Areschong thuộc họ Côn bố (Laminariaceae), người ta cũng còn dùng toàn cây khô của cây nga chưởng thái. Ecklonia kurome Oskam thuộc họ Tảo có cánh (Alariaceae), hoặc của một loại tảo Undaria pinnatifida (Harv.). Suring thuộc cùng họ Tảo có cánh (Alariaceae). "Côn" có nghĩa là cùng, là giống; "bố" là vải, vì vị thuốc này dài như tấm vải cho nên đặt tên như vậy.
Con rết - 蜈蚣. Còn có tên là ngô công, thiên long, bách túc trùng, bách cước. Tên khoa học Scolopendra morsitans L.. Thuộc họ Ngô công (Scolopendridae). Ngô công là toàn con rết Scolopendra monrsitans L. phơi hay sấy khô.
Cốt toái bổ - 骨碎補. Còn gọi là bổ cốt toái, co tạng tó (Thái ở châu Quỳnh Nhai), co in tó (Thái ở Điện Biên), cây tổ phượng, cây tổ rồng, tổ diều, tắc kè đá. Tên khoa học Drynaria fortunei J. Sm. (Polypodium fortunei O. Kuntze). Thuộc họ Dương xỉ (Polypodiaceae). Cốt toái bổ hay bổ cốt toái (Rhizoma Drynariae fortunei) là thân rễ phơi khô của cây bổ cốt toái. Tên bổ cốt toái vì người ta cho rằng vị này có tác dụng làm liền những xương dập gẫy. Tên co tạng tó vì tạng có nghĩa là đặt vào, tó là liền lại vì vị thuốc này đặt vào thì làm liền lại. Chữ in có nghĩa là gân, vì vị thuốc có tác dụng nối liền gân cốt.
Củ cốt khí - 虎杖根. Còn gọi là hoạt huyết đan, tử kim long, ban trượng căn, hổ trượng căn, điền thất (miền nam). Tên khoa học Reynaotria japonica Houtt. Polygonum cuspidatum Sieb et Zucc. Polygonum reynoutria Makino. Thuộc họ Rau răm (Polygonaceae). Củ cốt khí (Radix Polygoni cuspidati) là rễ phơi hay sấy khô của cây củ cốt khí. Cần chú ý là chữ cốt khí còn dùng chỉ hạt và lá của nhiều cây khác thuộc họ Đậu. Đặc biệt, qua cuộc điều tra nghiên cứu, chúng tôi chỉ thấy có cây này mang tên cốt khí lại thuộc họ Rau răm.
Củ gió - 金果欖 (金果榄). Còn gọi là kim quả lãm, sơn từ cô, kim ngưu đởm, kim khổ lãm, địa đởm. Tên khoa học Tinospora capillipes Gagnep. Thuộc họ Tiết dê (Menispermaceae).
Củ nâu - 薯莨. Còn gọi là khoai leng, vũ dư lương. Tên khoa học Dioscorea cirrhosa Lour. Thuộc họ Củ nâu (Dioscoreaceae).
Cúc áo - 天文草. Còn gọi là cây hoa cúc áo, ngổ áo, nụ áo lớn, phát khát (Vientian), cressdon de Para. Tên khoa học Spilanthes acmella L. Murr., (Verbesina acmella L., Eclipta prostrata Lour non L.). Thuộc họ Cúc Asteraceae (Compositae).
Cúc hoa - 菊花. Còn gọi là cam cúc hoa, bạch cúc hoa, cúc hoa trắng, cúc điểm vàng, hoàng cúc. Tên khoa học Chrysanthemum sinense Sabine, [Chrysanthemum morifolium Ramat Chrysanthemum indicum Lour. (non L.)]. Thuộc họ Cúc Asteraceae (Compositae). Cúc hoa (flos Chrysanthemi) là hoa cúc phơi hay sấy khô. Người ta còn dùng cả hoa của cây cúc hoa vàng hay dã cúc, kim cúc, cúc riềng vàng Chrysanthemum indicum L. Chrysanthemum procumbens Lour.) cùng họ. Cúc là cùng tận: Tháng 9 hoa cúc nở sau cùng.
Cúc liên chi dại Còn gọi là cây chứng ếch, Camomille sauvage. Tên khoa học Parthenium hysterophorus L. (Argyrochoeta bipinnatyfida Cav, Villanova bipinnatifida Orteg.). Thuộc họ Cúc Asteraceae (Compositae).
ĐỐI TÁC - LIÊN KẾT
[ Lên đầu trang ]