Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu

CÂY SỪNG DÊ - 羊角拗

Còn gọi là cây sừng trâu, dương giác nữa, dương giác ảo, hoa độc mao ư hoa tử, cây sừng bò.

Tên khoa học Strophanthus divaricatus (Lour.) Hook. et Arn, (Strophanthus divergens Graham, Penploca divaricata Spreng).

Thuộc họ Trúc đào (Apocynaceae).

CÂY SỪNG DÊ, 羊角拗, cây sừng trâu, dương giác nữa, dương giác ảo, hoa độc mao ư hoa tử, cây sừng bò, Strophanthus divaricatus (Lour.) Hook. et Arn, Strophanthus divergens Graham, Penploca divaricata Spreng, họ Trúc đào, Apocynaceae

Sừng dê  - Strophanthus divaricatus

Người ta dùng hạt phơi hay sấy khô của quả sừng dê đã chín gọi là Semen Strophan thidi divaricati.

A. MÔ TẢ CÂY

Cây sừng dê là một cây nhỏ, cao chừng 3 đến 4,5m. Toàn thân cây và lá khi bẻ có nhủ dịch màu trắng sữa. Cành non vuông, gầy, màu nâu lục nhạt; cành già hình trụ nâu đen nhạt có khía dọc, nhiều đóm bì khổng trắng nổi lên.

Lá mọc đối, hơi giống hình thìa, trên to dưới nhỏ, đầu nhọn, dài 5-9cm, rộng 2,5-5cm; gân lá gồm 6 đến 8 đôi không nổi rõ ở cả hai mặt; cuống lá dài 3 đến 8mm, gầy, trên có lòng máng.

Cụm hoa hình xim ở đầu cành, mang 1-3 hoa to; cuống hoa dài 1-1,5cm gần đài có một đôi lá bắc mọc đối. Đài hoa màu xanh hay vàng xanh; tràng hoa hình phễu rộng, trên xẻ làm 5 cánh màu vàng, đặc biệt phía trên của cánh tràng hẹp lại thành hình sợi; bầu trung, có 2 ngăn.

Trồng ở vườn Trường đại học dược khoa Hà Nội. Ra hoa vào tháng 2-3 (nhưng sau 3 năm chưa thấy có quả).

Quả khô gồm 2 đại dính vào nhau, đầu đại nhỏ nhưng tù, đại dài chừng 10cm đến 15cm, vỏ dày cứng. Khi chín mở ra có nhiều hạt có cuống và chùm lông mịn dài.

B. PHÂN BỐ, THU HÁI VÀ CHẾ BIẾN

Cây sừng dê mọc rất phổ biến ở Việt Nam, nhiều nhất ở Hà Tĩnh, Nghệ An, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên, còn thấy mọc ở Hoà Bình, Hà Tây, Ninh Bình và nhiều nơi khác.

Cây này còn thấy mọc ở miền nam Trung Quốc tại các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Phúc Kiến, đảo Hải Nam. Trước đây tại nước ta cũng như tại Trung Quốc chưa được sử dụng. Sau ngày giải phóng Trung Quốc, cây này được nghiên cứu và được công nhận dùng làm thuốc thay thuốc chế từ những hạt Strophanthus trước đây vẫn phải nhập.

Tại Việt Nam, ngày từ hòa bình lập lại chúng tôi chú ý tìm phát hiện lại nhưng mãi đến năm 1960 Trường đại học tổng hợp mới phát hiên lại được lần đầu tiên ở Chi Nê (Hà Nam Ninh) và sau đó đã phát hiện lại ở nhiều nơi kể trên.

Hiện đã được nghiên cứu để đưa vào áp dụng trong lâm sàng.

C. THÀNH PHẦN HÓA HỌC

Hạt cây sừng dê mọc ở Trung Quốc đã được một tác giả Trung Quốc Chu Nhiệm Hoàng nghiên cứu từ năm 1940 (Sapogeninsof Chinese Drug Yang Chiao-ou, Trung hoa sinh lý học tạp chí 15: 309) đã thấy ngoài 37% chất dầu còn có chừng 1,8% một chất saponozit không có tinh thể, sau khi dùng axit để thủy phân thì thu được 3 loại sapogenin có tinh thể, sau khi dùng axit để thủy phân thì thu được 3 loại sapogenin có tinh thể là strophantilin A có công thức C25H36O4 độ chảy 205-291o và strophantilin C với công thức C18H26O4 độ chảy 305-307o.

Nhưng đến năm 1953 (Trung Hoa y học tạp chí 43:1) hai tác giả khác là Schindler và Reichstein đã chiết từ hạt cây sừng dê mọc ở Trung Quốc hai chất glucozit và đặt tên là divaricozit và caudozit.

D. TÁC DỤNG DƯỢC LÝ

Năm 1944, Ngô Ban (A pharmacological Study of the Saponin of Yang Chiao-ou. Chin Med. J. 63; 91-95) nghiên cứu tác dụng dược lý của chất saponin trong hạt cây sừng dê Trung Quốc đã đi đến kết luận rằng chất này có tác dụng làm co bóp tim mạch; đối với huyết áp và mạch máu thì với liều không độc hầu không thấy tác dụng, nhưng với liều mạnh, độc (2/3 liều tối thiểu gây độc) thì thấy tác dụng co mạch và huyết áp tăng cao. Định lượng sinh lý trên ếch và mèo thì thấy tác dụng bằng 2/3 tác dụng của K strophantin, một glucozit chữa tim chiết từ hạt Strophantbus kombe Olivier mọc ở châu Phi.

Năm 1959, một tác giả Trung Quốc khác Đặng Sĩ Hiền (Acta pharmaceutica Sin 8: 161-165) nghiên cứu thêm tác dụng thông tiểu và trấn tĩnh của divazit, một glucozit chiết từ hạt cây sừng dê Trung Quốc có tác dụng lợi tiểu rõ rệt trên chó (thí nghiệm cấp diễn) và trên chuột (thí nghiệm trường diễn). Sau khi tiêm thuốc từ nửa giờ đến 2 giờ thì lượng nước tiểu tăng lên đối tối đa, so với những con vật không tiêm thuốc thì tăng lên gấp 1,7 lần. Đồng thời tác giả so sánh tác dụng lợi tiểu của K-strophantin thì thấy sau khi tiêm K-strophantin vào 1 đến 3 giờ thì lượng nước tiểu tăng lên tối đa và gấp 4,4 lần so với lượng nước tiểu của những con vật không tiêm thuốc.

Về tác dụng trấn tĩnh, tác giả đã tiêm với liều 5-8,7mg trên 1kg lượng chuột thấy tác dụng hơi trấn tĩnh đồng thời tim đập chậm, với liều 11,5-20mg trên 1kg thể lượng thì tác dụng trấn tĩnh rõ ràng nhưng tim cũng đập chậm rõ rệt, với liều 15,2-20mg trên 1kg thể lượng thì có hiện tượng ngộ độc.
Năm 1963, Đoàn Thị Nhu (Viện dược liệu) đã nghiên cứu tác dụng dược lý dung dịch glucozit toàn phần của hạt một loại sừng dê mọc ở Hà Tĩnh trên tim ếch tại chỗ, trên tim ếch cô lập theo phương pháp Straub, trên tim thỏ cô lập và trên huyết áp động mạch mèo và thỏ đã đi tới một số kết luận sau đây:

   - Dung dịch glucozit toàn phần có tác dụng làm tăng rất mạnh sức co bóp của tim và tăng trương lực cơ tim.

   - Làm chậm nhịp tim nhưng ảnh hưởng đến nhịp tim tương đối ít.

   - Khi tiêm tĩnh mạch tác dụng xuất hiện nhanh, không có giai đoạn chờ đợi như với digitalin.

   - Ít ảnh hưởng đối với huyết áp, chỉ làm tăng huyết áp rõ rệt với liều độc.

   - Với liều độc, gây ngừng tim ở trạng thái co thắt tâm thu.

Nói tóm lại tác giả cho rằng tác dụng dược lý của glucozit toàn phần loài Strophanthus nghiên cứu trên hệ tim mạch giống như những loài Strosphanthus khác đã được nghiên cứu và công bố (rất tiếc tác giả không nói rõ loài Strophanthus nào, vì ở Hà Tĩnh có nhiều loài Strophanthus - xem phần chú thích).

E. CÔNG DỤNG VÀ LIỀU DÙNG

Hạt cây sừng dê có thể dùng để chế thuốc chữa bệnh tim thay những loại thuốc tương tự chế bằng các hạt Strophanthus khác trước đây phải nhập của nước ngoài thuộc châu Phi.

Trong đông y không thấy nói tới công dụng, chỉ thấy nói rằng có nơi xưa kia dùng hạt này để chế tên thuốc độc dùng trong săn bắn.

Chú thích:

   Ngoài loài Stophanthus divaricatus có hoa màu vàng kể trên, trong nước ta còn 3 loại khác có hoa màu đỏ vì tài liệu chưa rõ nên chưa xác định chắc chắn:

   1. Loài Strophanthus robustus Pierre: Cây nhỏ mọc leo cành non gầy nhăn, màu nâu đỏ nhạt có bì khổng hơi tròn, màu xám nhạt. Lá dài 5-8cm, rộng 3,5-5cm, hình thuôn dài cuống 4-6cm, có lòng máng ở mặt bên. Cụm hoa hình xim lưỡng phân, mọc ở đầu cành, ít hoa, dài 2-10cm. Hoa màu đỏ, cánh tràng 5, dài 5-7cm, phía dưới rộng 3-4mm, phía trên hẹp lại thành một thùy hình sợi; dưới mỗi cánh tràng có một đôi vẩy dài 3mm, mẫm, nguyên, đỉnh nhọn; ống dài 9-12cm, trên loe hình phễu, dưới hình trụ. Quả khô; hai đại dài 12cm, phía cuống rộng 2cm đầu tù, van xơ gỗ, dầy 4mm màu xám nhạt có rãnh dọc. Hạt nhiều, dài 21mm, rộng 2mm mặt phẳng có cán mang nhiều lông mịn trắng, dài. Mùa hoa quả vào tháng 3-4.

IMG

Sừng dê hoa đỏ - Strophantus robustus

   2. Loài Strophanthus caudatus Kurtz. Loài này hoa cũng đỏ có hai thứ là:

   a/ Strophanthus eecaudatus Kurtz var. macrophyllus Franch. (Strophanthus pentaphyllus Griff., Echites caudata Burm, Nerium caudatum Lamk., Nerium scandens Lour). Cây này làm một cây nhỏ hay dây leo cao 3-8m; cành non đen đỏ nhạt, rất nhiều bì khổng, có nhiều sẹo lá. Lá dài 8-16cm, rộng 3,5-8cm hình trái xoan hơi thuôn, thường trên to dưới hẹp, dai, mặt trên bóng, mặt dưới mờ, gân có 8-12 đôi, mọc chéo lên, hơi nổi rõ ở mặt dưới; cuống dài 10-15mm có lòng máng ở trên. Cụm hoa là xim tận cùng, dài 5-15cm, cuống dài 1-3cm,lá bắc dài 5-8mm, hoa đỏ, cánh tràng 6 dài 6cm phía dưới hình trứng, phía trên đọt nhiên hẹp lại; phía dưới mõi cánh tràngcó 2 vẩy dài 5mm, ống hoa dài 12-15mm, dưới hình trụ dài 8mm, phía trên loe hình phễu dài 7mm. Quả đại dài 15cm, đường kính 3cm, đầu tù. Ra hoa vào các tháng 3-8. Đã phát hiện ở Vĩnh Phú, Nghệ Tĩnh, Quảng Trị, (Bình Trị Thiên) Hoà Bình (Hà Sơn Bình).

IMG

Sừng dê hoa đỏ - Strophantus caudatus

   b/ Strophanthus caudatus Kurtz var. giganteus Pitard (Strophanthus giganteus Pierre, Strophanthus pierrei Heim). Cũng là một loài dây leo, lá dài 12-22cm, rộng 4-7cm, hình mác thuôn hơi dài, gân có 9-12 đôi, cuống dài 9-11mm.Cụm hoa hình xim ở đầu cành, dài 4-8cm, hoa cũng màu đỏ. Quả khô 2 đại dài 18-22cm phía cuống rộng 2,5cm, đầu tù; vỏ quả cứng đen nhạt trên có khía dọc, nhiều hạt dài 1,75cm, rộng 6mm, phía dưới tròn, trên dẹt, cán lông trắng mịn, chiếm 3,5cm, lông dài tới 5cm. Ra hoa vào các tháng 8-12, quả vào tháng 12.

   c/ Strophanthns balansae Franch. Cây nhỏ, có nhiều cành; cành không có bì khổng. Lá dài 16cm, rộng 5-7cm. Cụm hoa chưa biết. Quả khô, dài 12cm, rộng 2cm, đầu tù, hơi nhọn, hạt dài 10-12mm, rộng 5-6mm dẹt, mép dầy lên, phía dưới tròn, một mặt có rãnh, cán lông ngắn, lông dài tới 5cm. Theo tài liệu cũ loài này có thấy mọc ở Thủ Pháp (Sơn Tây cũ nay thuộc Hà Tây).

   Tóm lại, loài Strophanthus hoa vàng tương đối dễ nhận, tên đã xác định chắc chắn, đã được nghiên cứu ở nước ngoài. Nhưng các loài Strophanthus hoa đỏ vì nhiều loài mà tài liệu cũ mô tả chưa rõ ràng, cho nên rất khó xác định.

Nguồn: Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tác giả: Giáo sư Tiến sĩ khoa học ĐỖ TẤT LỢI



Xin vui lòng ghi rõ nguồn http://www.dotatloi.com khi phát hành lại thông tin.


Tuyên bố miễn trừ trách nhiệm:
Thông tin trên www.dotatloi.com chỉ phục vụ nghiên cứu học tập và mở rộng kiến thức. Không sử dụng làm căn cứ để tiến hành chẩn trị trên lâm sàng. Thông tin trên www.dotatloi.com có thể được trích dẫn, thu thập từ các ấn phẩm, các trang tin điện tử liên quan trong nước và ngoài nước. Nếu phát sinh vấn đề bản quyền, kính đề nghị phản hồi cho chúng tôi.

Viết bình luận

Để thuận tiện cho việc đăng tải, xin vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.
Chúng tôi mong muốn nhận được những bình luận theo hướng mở rộng hoặc bổ sung thông tin liên quan đến bài viết.
Chúng tôi sẽ khóa những bình luận có ngôn từ mang tính kích động hoặc bất nhã.

focus Thường sơn
10/03/2025 11:26 CH

- 常山. Còn gọi là hoàng thường sơn, thục tất, áp niệu thảo, kê niệu thảo. Tên khoa học Dichroa febrifuga Lour. Thuộc họ Thường sơn (Saxifragaceae). Cây thường sơn cho ta các vị thuốc sau đây: (1) Vị Thường sơn (Radix Dichroae) là rễ phơi hay sấy khô của cây ...

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu
Tên vị thuốc Mô tả
Táo rừng Còn gọi là mận rừng, bút mèo, vang trầm. Tên khoa học Rhamnus crenatus Sieb và Zucc. var. cambodianus Tard. Thuộc họ Táo ta (Rhamnaceae).
Tất bạt - 蓽拔 (荜拔). Còn gọi là tiêu lốt, tiêu hoa tím, morech ton sai (Campuchia). Tên khoa học Piper longum Lin. Thuộc họ Hồ tiêu (Piperaceae).
Tật lê - 蒺藜. Còn gọi là bạch tật tê, gai ma vương, thích tật lê, gai sầu, gai trống, gai yết hầu, herbe terrestre, saligot terrestre, herse. Tên khoa học Tribulus terrestris L. (T. lanuginosus L.). Thuộc họ Tật lê (Zygophyllaceac). Bạch tật lê (Fructus Tribuli) là quả chín phơi hay sấy kho của cây tật lê. Vì quả có gai, giẫm phải thường sinh bệnh thối thịt như bị ma quỷ cho nên còn có tên gai ma vương.
Tế tân - 細辛. Tên khoa học Asarum sieboldii Miq. Thuộc họ Mộc thông (Aristolochiaceae). Tế tân (Herba Asari sieboldi) là toàn cây phơi hay sấy khô của cây tế tân. Tế là nhỏ, tân là cay vì vị thuốc có rễ nhỏ, vị cay nên gọi là tế tân. Ngoài cây tế tây nói trên (còn gọi là hoa tế tân) người ta còn dùng một cây khác với tên liêu tế tân (còn gọi là tế sâm) là toàn cây phơi hay sấy khô của cây liêu tế tân - Asarum heterotropoides F. Schum. var. mandshuricum (Maxim.) Kitag. cùng họ.
Tề thái - 薺菜 (荠菜). Còn gọi là tề, tề thái hoa, địa mễ thái. Tên khoa học Capsella bursa pastoris (L.) Medic. Thuộc họ Chữ thập Brassicaceae (Cruciferae). Tề thái (Herba Capsellae) hoặc (Herba Bursae pastoris) là toàn cây tề thái phơi hay sấy khô.
Thạch - 凉粉. Còn gọi là quỳnh chi. Tên khoa học agar, agar-agar. Thạch (agar hay agar-agar) là một chất nhầy phơi khô chế từ một số hồng tảo như nhiều loại rau câu (gracilaria sp.) của ta hoặc từ một loại hồng tảo gọi là thạch hoa thái Gelidium amensii Lamour. thuộc họ Thạch hoa thái (Gelidiaceae) lớp hồng tảo (Rhodophyceae).
Thạch hộc - 石斛. Còn gọi là kim thoa thạch hộc, thiết bì thạch hộc, kim thạch hộc, câu trạng thạch hộc, hắc tiết thảo, hoàng thảo. Tên khoa học Dendrobium sp. Thuộc họ Lan (Orchidaceae). Thạch hộc (Caulis Dendrobii) là thân phơi hay sấy khô của nhiều loài thạch hộc hay hoàng thảo như Dendrobium nobile Lindl., Dendrobium simplicissimum Kranzl., Dendrobium dalhousieanum Wall., Dendrobium gratiosissimum Reichb., Dendrobium crumenatum Sw., v.v... Vị thuốc trên nhỏ dưới to, giống như cái hộc, mọc ở núi đá, do đó có tên (thạch: đá; hộc: cái hộc).
Thạch quyết minh - 石決明. Còn gọi là cửa khổng, cửa khổng loa, ốc khổng, bào ngư. Tên khoa học Haliotis sp. Thuộc họ Haliotidae, lớp Phúc túc (Gastropoda), ngành Nhuyễn thể (Mollusca). Thạch quyết minh (Concha Haliotidis) là vỏ phơi khô của nhiều loài bào ngư Haliotis diversicolor Reeve (cửa khổng bào), Haliotidis gigantea discus Reeve (bào đại não) và Haliotidis ovina Gmelin (dương bào). Tên là thạch quyết minh vì là một vị thuốc giống đá (thạch) lại có tính chất làm tan màng, sáng mắt. Còn cửu khổng hay ốc khổng vì ở mép vỏ của bào ngư có một hàng lỗ nhỏ từ 7 đến 13 lỗ (thường là 9 lỗ), tức là chỗ để không khí ra vào cho con bào ngư thở.
Thạch vĩ - 石韋 (石韦). Còn gọi là thạch bì, thạch lan, phi đao kiếm, kim tinh thảo. Tên khoa học Pyrrhosia lingua (Thunb.) Farwell (Cyclophorus lingua Desv., Polypodium lingua Siv.). Thuộc họ Dương xỉ (Polypodiaceae).
Thần khúc - 神曲. Còn gọi là lục thần khúc, lục đình khúc, kiến thần khúc. Tên khoa học Massa medicata fermentata. Thần khúc là một vị thuốc rất phổ cập để chữa bốn mùa cảm mạo, ăn uống không tiêu v.v... Nhưng thần khúc không phải do một cây thuốc nào cung cấp mà gồm nhiều vị thuốc phối hợp với bột mì hoặc bột gạo tạo nên một môi trường đặc biệt gây mốc rồi phơi khô. Vì lúc đầu thần khúc chỉ gồm có 6 vị thuốc phối hợp với nhau, ủ cho lên mốc vào những ngày 5 tháng 5, ngày 6 tháng 6 hoặc trước ngày 20 tháng 7 (âm lịch), những ngày này theo mê tín cũ là những ngày các thần hội họp với nhau do đó thành tên (lục = sáu, thần = ông thần). Nguồn gốc thần khúc ở tỉnh Phúc Kiến (Trung Quốc) vì vậy còn có tên kiến thần khúc (thần khúc của Phúc Kiến).
Thàn mát - 鬧魚崖豆 (闹鱼崖豆). Còn gọi là mác bát, hột mát, duốc cá, thăn mút. Tên khoa học Milletia ichthyochtona Drake. Thuộc họ Cánh bướm Fabaceae (Papilionaceae). Hạt cây thàn mát được nhân dân miền núi nước ta dùng để duốc cá (làm cho cá say thuốc mà bắt).
Thanh cao - 青蒿. Còn gọi là thảo cao, hương cao, thanh hao. Tên khoa học Artemisia apiacea Hance. Thuộc họ Cúc Artemisia (Compositae). Thanh cao (Herba Artemisiae apiaceae) là toàn bộ phận trên mặt đất cây thanh cao phơi hay sấy khô. Tên thanh hao còn dùng để chỉ một cây nữa (xem chú thích ở dưới) cần chú ý để tránh nhầm lẫn.
Thanh cao hoa vàng - 黄花蒿. Còn gọi là thanh hao, thanh cao, thảo cao. Tên khoa học Artemissia annua L. Thuộc họ Cúc Asteriaceae (Compositae).
Thanh đại - 青黛. Thanh đại (Indigo pulverata levis) là màu xanh chế từ nhiều cây khác nhau, chủ yếu là các cây sau đây: 1. Cây chàm (Indigofera tinctoria L.) thuộc họ Cánh bướm (Fabaceae); Nghể chàm (Polygonum tinctorium Lour) thuộc họ Rau răm (Polygonaceae); Cây chàm Strobilanthes cusia Bremek (hay strobilanthes flaccidifolius Ness), còn gọi là cây chàm mèo thuộc họ Ô rô (Acanthaceae); 4. Một số cây khác chưa thấy ở nước ta, như cây Isatis tinctoria L., họ Chữ thập (Brassicaceae) và cây Isatis indigotica Fort, cũng thuộc họ Chữ thập (Brassicaceae).
Thanh long - 量天尺. Còn gọi là cây mắt rồng, oeil de dragon (Pháp). Tên khoa học Hylocereus undulatus (Haw.) Britt & Rose. Thuộc họ xương rồng (Cactaceae).
Thanh ngâm - 苦玄參 (苦玄参). Còn gọi là mật đất, cây mật cá, sản đắng, thằm ngăm đất. Tên khoa học Curanga amara Juss. Thuộc họ Hoa mõm chó (Scrophulariaeae).
Thành ngạnh - 黄牛木. Còn gọi là cây đỏ ngọn (Vĩnh Phú), lành ngạnh, ngành ngạnh, may tiên, ti u (Lai Châu). Tên khoa học Cratoxylon prunifolium Dyer (Cratoxylon pruniflorum Kurtz). Thuộc họ Ban (Hypericaceae).
Thảo đậu khấu - 草豆蔻. Còn gọi là thảo khấu nhân, ngẫu tử. Tên khoa học Alpnia katsumadai Hayt. Thuộc họ Gừng (Zingiberaceae). Thảo đậu khấu (Semen Alpiniae katsumadai) là hạt phơi hay sấy khô lấy từ quả gần chín của cây thảo khấu (Alpinia katsumadai).
ĐỐI TÁC - LIÊN KẾT
[ Lên đầu trang ]