Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu

CÂY MỘT LÁ - 毛唇芋蘭 (毛唇芋兰)

Còn gọi là chân trâu diệp, thanh thiên quỳ, Slam lài, bâu thoọc, kíp lầu (Quảng Hoa-Cao Bằng).
Tên khoa học Nervilis fordii (Hance) Schultze.

Thuộc họ Lan (Orchidaceae).

CÂY MỘT LÁ, 毛唇芋蘭, 毛唇芋兰, chân trâu diệp, thanh thiên quỳ, Slam lài, bâu thoọc, kíp lầu, Nervilis fordii, Hance Schultze, họ Lan, Orchidaceae

Cây một lá - Nervilis fordii

Ta dùng lá hay toàn cây phơi hoặc sấy khô của cây một lá hay thanh thiên quỳ.

A. MÔ TẢ CÂY

Cây một lá, còn có tên thanh thiên quỉ hay bầu thoọc (bầu là lá, thoọc là một) hay chân châu diệp là một cây địa sinh, loại cỏ sống lâu, cao từ 10-20cm.

Thân rất ngắn, củ tròn to, có thể nặng tới 1,5-20g. Thẳng từ củ, chỉ mọc lên có một lá riêng lẻ sau khi hoa tàn.

Lá hình tim tròn, xếp theo các gân lá hình chân vịt, đường kính 10-25cm mép uốn lượn. Gân lá tỏa đều từ cuống lá, cuống lá dài 10-20cm, màu tím hồng.

Cụm hoa có cán dài 20-30cm. Hoa thưa 15-20 cái, mọc thành chùm hay bông màu trắng, đốm tím hồng hay màu vàng hơi xanh lục. Lá đài và cánh hoa giống nhau. Cánh môi 3 thùy, có rất nhiều gân, có lông ở quãng giữa, thùy bên và thùy tận cùng hình ba cạnh, cột dài 6mm, phồng ở đỉnh. Ra hoa tháng 3-4-5, quả nang vào các tháng 4-5-6. Khi hoa nở, đầu cánh hoa phía trên chụm lại làm toàn hoa giống như chiếc đèn lồng.

Quả hình thoi, trên có múi trông giống như quả khế con, dài 2-3cm.

Thường sau khi hoa tàn rồi, lá mới phát triển do đó hoặc ta chỉ thay cây mang hoa, hoặc quả, không có lá, hoặc chỉ thấy cây có lá, thường một lá.

B. PHÂN BỐ, THU HÁI VÀ CHẾ BIẾN

Thanh thiên quỳ ưa mọc ở kẽ núi đá, nơi thấp và ẩm ướt, dưới bóng cây to hoặc dưới đám cỏ dày đặc. Hầu như không thấy mọc ở bờ ruộng hay ở những môi trường khác.

Trước đây ở nước ta hầu như ít chú ý khai thác. Gần đây Trung Quốc đặt mua ở một số tỉnh biên giới nên ta mới chú ý phát hiện khai thác tại một số vùng ở biên giới Tràng Định, Văn Uyên, Cao Lộc, Đồng mỏ, Hữu Lũng (Lạng sơn), Trùng Khánh, Quảng Uyên (Cao Bằng). Trị giá thu mua khá cao: 400kg lá khô trị giá bằng một xe hơi vận tải hoặc cứ 10kg lá khô đổi được 350kg phân hóa học loại tốt (Trung Quốc, 1959).

Ta mới chỉ phát triển khai thác mấy năm gần đây, chủ yếu để xuất khẩu. Ngoài các tỉnh nói trên, hiện ta đã phát hiện thanh thiên quỳ có ở nhiều vùng núi các tỉnh Lào Cai, Hà Gang, Tuyên Quang, Hà Tây, Hoà Bình, Sơn La, Lai Châu v.v... Còn đang tiếp tục điều tra.

Tại Trung Quốc, thanh thiên quỳ là đặc sản của 2 tỉnh Quảng Tây, Quảng Đông. Riêng tỉnh Quảng Tây một năm có thể thu mua tới gần 2 tấn lá khô.

Thu hái chủ yếu là toàn cây; nhưng để bảo vệ giống, chỉ nên thu hái lá, để dành củ cho cây phát triển. Tuy nhiên qua cách sinh trưởng của cây, ta thấy hoa quả và hạt nở trước khi biết cây cho nên cần chú ý theo dõi cách vừa khai thác vừa phát triển cây này.

Khi thu hái, chú ý phân biệt lá to, lá nhỏ để riêng. Hái về có 2 cách chế biến:

   1. Hái về rửa sạch đất cát, phơi cho hơi se thì dùng tay vò vừa phơi vừa vò, lúc đầu vò từng lá một, sau vò nhiều lá một lúc cho đến khi thật khô, ngày vò 2-3 lần.

   2. Cách thứ hai: Lá hái về rửa sạch đồ qua nước sôi, rồi tiếp tục làm như trên.

Tuy nhiên có nơi chỉ hái về rửa sạch phơi khô không vò cũng không đồ hay nhúng nước sôi trước khi vò và phơi.

Chế biến tốt, lá có màu tro sẫm hay lục đen, lá vo tròn thành cục mùi thơm. Theo thói quen, lá nhỏ là loại tốt.

C. THÀNH PHẦN HÓA HỌC

Chưa có tài liệu nghiên cứu.

D. CÔNG DỤNG VÀ LIỀU DÙNG

Chỉ mới thấy sử dụng trong phạm vi nhân dân, nhưng chủ yếu cũng chỉ thấy xuất khẩu, trong nước hầu như rất ít dùng.

Theo Quảng Tây trung dược chí thanh thiên quỳ được dùng làm thuốc lợi phế, cầm ho, giải độc, làm hết đau.

Dùng uống chữa lao phổi, làm cho phổi mát đỡ nóng, dùng ngoài giã nát đắp lên nơi đau, mụn nhọt.
Ngày dùng 12 đến 20g dưới dạng thuốc sắc.

Chú thích:

   1. Tại Trung Quốc, thanh thiên quỳ thường bị giả mạo hay nhầm với lá mã đề. Nhưng chỉ cần ngâm lá với nước một lúc cho mềm rồi trải lên mặt phẳng xem và so sánh là phân biệt dễ dàng.

   2. Tại nước ta, chú ý đừng nhầm với cây bát giác liên (Dysosma chengii) cũng có củ và 1 lá nhưng lá bát giác liên hình 6 cạnh, gân toả từ một điểm ở giữa phiến lá ra.

   3. Có tác giả đã xác định tên khoa học của cây một lá là Pogonium flabellifolium cùng họ Lan (Orchidaceae). Cần kiểm tra lại.

Nguồn: Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

Tác giả: Giáo sư Tiến sĩ khoa học ĐỖ TẤT LỢI



Xin vui lòng ghi rõ nguồn http://www.dotatloi.com khi phát hành lại thông tin.


Tuyên bố miễn trừ trách nhiệm:
Thông tin trên www.dotatloi.com chỉ phục vụ nghiên cứu học tập và mở rộng kiến thức. Không sử dụng làm căn cứ để tiến hành chẩn trị trên lâm sàng. Thông tin trên www.dotatloi.com có thể được trích dẫn, thu thập từ các ấn phẩm, các trang tin điện tử liên quan trong nước và ngoài nước. Nếu phát sinh vấn đề bản quyền, kính đề nghị phản hồi cho chúng tôi.

Viết bình luận

Để thuận tiện cho việc đăng tải, xin vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.
Chúng tôi mong muốn nhận được những bình luận theo hướng mở rộng hoặc bổ sung thông tin liên quan đến bài viết.
Chúng tôi sẽ khóa những bình luận có ngôn từ mang tính kích động hoặc bất nhã.

focus Cây dâu
10/04/2025 08:58 CH

- 桑. Còn gọi là mạy môn (Thổ), dâu cang (Mèo), tầm tang. Tên khoa học Morus alba L. Thuộc họ Dâu tằm (Moraceae). Dầu tằm cung cấp cho ta các vị thuốc sau đây: (1) Lá dâu = tang diệp - Folium Mori; (2) Vỏ rễ cây dâu = tang bạch bì - Cortex Mori radicis; (3) ...

Tra cứu theo "Tên Việt Nam":

A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y Tất cả

Kết quả tra cứu
Tên vị thuốc Mô tả
Cây khôi - 短柄紫金牛. Còn gọi là cây độc lực, đơn tướng quân. Tên khoa học Ardisia sylvestris Pitard. Thuộc họ Đơn nem (Myrsinaceae). Ta dùng lá cây khôi phơi hay sấy khô Folium Ardisiae.
Cây kim vàng - 花葉假杜鵑 (花叶假杜鹃). Còn có tên là Gai kim vàng, Trâm vàng. Tên khoa học Barleria lupulina Lindl. Thuộc họ Ô rô Acanthaceae.
Cây la - 野煙葉 (野烟叶). Còn gọi là la rừng, ngoi, cà hôi, phô hức (Thổ), chìa vôi, sang mou (Luang prabang-Lào). Tên khoa học Solanum verbascifolium L. (Solanum pubescens Roxb, Solanum erian-thum Don.). Thuộc họ Cà (Solanaceae).
Cây lá men - 小魚仙草 (小鱼仙草). Còn gọi là kinh giới núi, cây men. Tên khoa học Mosla dianthera Maxim. Thuộc họ Hoa Môi Lamiaceae (Labiatae).
Cây lá ngón - 斷腸草 (断肠草). Còn gọi là co ngón (Lạng Sơn), thuốc dút ruột - hồ mạn trường - đại trà đằng, hồ mạn đằng, hoàng đằng, câu vẫn, đoạn trường thảo. Tên khoa học Gelsemium elegans Benth, (Medicia elegans Gardn, Leptopteris sumatrana Blume). Thuộc họ Mã tiền (Loganiaceae). Cây lá ngón được coi lá loại cây độc nhất trong nước ta. Người ta cho rằng chỉ cần ăn 3 lá là đủ chết người. Tên cây ngón còn dùng để chỉ một cây khác nữa có tên khoa học là Pterocaryatonkinensis Dode thuộc họ Hồ đào (Juglandaceae) sẽ giới thiệu ở sau. Cần chú ý tránh nhầm lẫn.
Cây lá tiết dê - 錫生藤 (锡生藤). Còn gọi là cây mối tròn, cây mối nám. Tên khoa học Cissampelos pareira L. (Cissampelos convolvulacea Willd.). Thuộc họ Tiết dê (Menispermaceae).
Cây lai - 石栗. Còn gọi là thạch lật (Trung Quốc), ly (Thái) sekiritsu (Nhật), bancoulier à trois lobes. Tên khoa học Aleurites moluccana Willd. (Aleurites triloba Forst.). Thuộc họ Thầu dầu (Euphorbiaceae).
Cây lim - 格木. Còn gọi là xích diệp mộc, cách mộc. Tên khoa học Erythrophloeum fordii Oliv. Thuộc họ Vang (Caesalpiniaceae).
Cây mã tiên thảo - 馬鞭草 (马鞭草). Còn có tên là cỏ roi ngựa. Tên khoa học Verbena officinalis L.. Thuộc họ Cỏ roi ngựa (Verbenaceae). Người ta dùng toàn cây mã tiên thảo (Herba Verbenae) tươi hay phơi hoặc sấy khô. Tên mã tiên do chữ "mã" = ngựa, "tiên" = roi, vì cỏ dài, thẳng, có đốt như roi ngựa, do đó mà đặt tên như vậy. Châu Âu (Pháp) dùng với tên Verveine.
Cây mắm - 海欖雌 (海榄雌). Còn gọi là mắm đen, mắm trắng. paletuvier, manglier (Pháp). Tên khoa học Aviccennia marina Vierh var. alba Bakhuiz (mắm trắng), Avicennia marina Vierh var. rumphiana Bakhuiz. Thuộc họ Cỏ roi ngựa (Verbernaceae).
Cây mào gà đỏ - 雞冠花 (鸡冠花). Còn có tên bông mồng gà đỏ, kê quan hoa, kê đầu, kê quan. Tên khoa học Celosia cristata L. (Celosia argentea var. cristata (L.) O. Kuntze. Thuộc họ Dền (Amaranthaceae).
Cây mào gà trắng - 青葙. Còn có tên bông mồng gà trắng, đuôi lươn, dã kê quan, thanh tương tử. Tên khoa học Celosia argentea L. (C.linearis Sw.). Thuộc họ Dền (Amaranthaceae). Ta dùng vị thanh tương tử (Semen Celosiae) là hạt chín phơi hay sấy khô của cây mào gà trắng.
Cây me rừng - 餘甘子 (余甘子). Còn gọi là du cam tử, ngưu cam tử, dư cam tử. Tên khoa học Phyllantus emblica Linn. Thuộc họ Thầu dầu (Euphorbiaceae).
Cây mỏ quạ - 穿破石. Còn gọi là hoàng lồ, vàng lồ, xuyên phá thạch. Tên khoa học Cudrania tricuspidata (Carr.) Bur. Thuộc họ Dâu tằm (Moraceae).
Cây một lá - 毛唇芋蘭 (毛唇芋兰). Còn gọi là chân trâu diệp, thanh thiên quỳ, Slam lài, bâu thoọc, kíp lầu (Quảng Hoa-Cao Bằng). Tên khoa học Nervilis fordii (Hance) Schultze. Thuộc họ Lan (Orchidaceae). Ta dùng lá hay toàn cây phơi hoặc sấy khô của cây một lá hay thanh thiên quỳ.
Cây mướp sát - 海杧果. Còn gọi là sơn dương tử, hải qua tử, da krapur (Campuchia). Tên khoa học Cerbera odollam Gaertn, (Cerbera manghas L., Tanghinia odollam G. Don). Thuộc họ Trúc đào (Apocynaceae).
Cây nghể - 水蓼. Còn có tên là thủy liễu, rau nghể. Tên khoa học Polygonum hydropiper L. Persicaria hydropiper (L.) Spoch. Thuộc họ Rau răm (Polydonaceae). Nghể (Herba Polygoni hydropiperis) là toàn cây phơi hay sấy khô của cây nghể (Polygonum hydropiper L.).
Cây ngọt nghẹo - 嘉蘭 (嘉兰). Còn gọi là roi, cỏ củ nhú nhoái, vinh quang rực rỡ, phan ma ha (Lào), var sleng đông đang (Cămpuchia)... Tên khoa học Gloriosa superba L. (G.simplex Don.). Thuộc họ Hành tỏi (Liliaceae). Cây ngọt nghẹo là một nguồn conchixin ở nước ta và những nước nhiệt đới khác, đồng thời là một cây làm cảnh vì hoa rất đẹp.
ĐỐI TÁC - LIÊN KẾT
[ Lên đầu trang ]